Quảng cáo trực tuyến - đào tạo seo - căn hộ The Park Avenue

Thứ Năm, 27 tháng 6, 2013

Quá trinh nung gốm ở Bát Tràng

Khi công việc chuẩn bị hoàn tất thì đốt lò trở thành khâu quyết định sự thành công hay thất bại của một mẻ ceramic. Việc làm chủ ngọn lửa theo nguyên tắc nâng dần nhiệt độ để lò đạt tới nhiệt độ cao nhất và khi gốm chín thì lại hạ nhiệt độ từ từ chính là bí quyết thành công của khâu đốt lò.Trước đây người thợ gốm Bát Tràng chuyên sử dụng các loại lò như lò ếch (hay lò cóc), lò đàn và lò bầu để nung gốm, sau này, xuất hiện thêm nhiều loại lò nung khác, càng ngày càng hiện đại và đơn giản trong việc thao tác hơn.

I) Lò nung:

1) Lò ếch: là kiểu lò gốm cổ nhất được sử dụng một cách phổ biến ở khắp mọi nơi, hiện nay mất hết dấu tích nhưng qua các nguồn tư liệu gián tiếp vẫn có thể hình dung được lò có hình dáng giống như một con ếch dài khoảng 7 mét, bề ngang chỗ rộng nhất khoảng 3-4 mét, cửa lò rộng khoảng 1,2 mét, cao 1 mét. Đáy lò phẳng nằm ngang, vòm lò cao khoảng từ 2 mét đến 2,7 mét. Bên hông lò có một cửa ngách rộng 1 mét, cao 1,2 mét phục vụ cho việc chồng lò và dỡ sản phẩm. Lò có 3 ống khói thẳng đứng cao 3-3,5 mét. Trong mỗi bầu lò người ta chia thành 5 khu vực xếp sản phẩm là: hàng dàn, hàng gáy, hàng giữa, hàng chuột chạy và hàng mặt. Trong quá trình lâu dài sử dụng lò ếch, để khắc phục nhược điểm của lớp đất gia cố bên trong và sàn lò, người ta thay vào đó lớp gạch mộc và vữa ghép lại.

2)Lò đàn: Lò đàn xuất hiện vào giữa thế kỉ 19. Lò đàn có bầu lò dài 9 mét, rộng 2,5 mét, cao 2,6 mét được chia thành 10 bích bằng nhau. Vị trí phân cách giữa các bích là hai nống (cột). Cửa lò rộng 0,9 mét, cao l mét. Bích thứ 10 gọi là bích đậu thông với buồng thu khói qua 3 cửa hẹp. Để giữ nhiệt, bích lò kéo dài và ôm lấy buồng thu khói. Lớp vách trong ghép gạch Bát Tràng, lớp vách ngoài xây bằng gạch dân dụng. Mặt dưới của cật lò gần như bằng phẳng còn mặt trên hình vòng khum. Hai bên cật lò từ bích thứ 2 đến bích thứ 9 người ta dấu mở hai cửa nhỏ hình tròn, đường kính 0,2 mét gọi là các lỗ giòi để ném nhiên liệu vào trong bích. Riêng bích đậu người ta mở lỗ đậu (lỗ giòi rộng hơn nửa mét). Nhiệt độ lò đàn có thể đạt được 1250–1300°C.

3)Lò bầu, hay lò rồng: Xuất hiện vào đầu thế kỉ 20. Lò bầu chia ra làm nhiều ngăn, thường có từ 5 đến 7 bầu (cũng có khi đến 10 bầu). Bầu lò có vòm cuốn liên tiếp vuông góc với trục tiêu của lò tựa như những mảnh vỏ sò úp nối với nhau. Người ta dùng gạch chịu lửa đề xây dựng vòm cuốn của lò. Lò dài khoảng 13 mét cộng với đoạn để xây ống khói ở phía đuôi dài 2 mét thì toàn bộ độ dài của lò tới 15 mét. Độ nghiêng của trục lò khoảng 12-15⁰. Nhiệt độ của lò bầu có thể đạt tới 1300°C.

4)Lò hộp hay lò đứng: Khoảng năm 1975 trở lại đây người Bát Tràng chuyển sang xây dựng lò hộp để nung gốm. Lò thường cao 5 mét rộng 0,9 mét, bên trong xây bằng gạch chịu lửa giống như xây tường nhà. Lò mở hai cửa, kết cấu đơn giản, chiếm ít diện tích, chi phí xây lò không nhiều, tiện lợi cho quy mô gia đình. Vì thế hầu như gia đình nào cũng có lò gốm, thậm chí mỗi nhà có đến 2, 3 lò. Nhiệt độ lò có thể đạt 1250°C.


Lò hộp (lò đứng)nung gốm

5)Lò gas lò tuynen (lò hầm, lò liên tục): Trong những năm gần đây, Bát Tràng xuất hiện thêm những kiểu lò hiện đại là lò con thoi, hoặc lò tuynen, đăc biệt được sử dụng nhiều là lò ga với nhiên liệu là khí đốt hoặc dầu. Trong quá trình đốt, nhiệt độ được theo dõi qua hỏa kế, việc điều chỉnh nhiệt độ mà thực chất là quá trình tăng giảm nhiên liệu được thực hiện bán tự động hoặc tự động, công việc đốt lò trở nên đơn giản hơn nhiều. Tuy nhiên, đây không phải là những lò truyền thống của Bát Tràng.


Lò ga nung gốm

II)Bao nung:

Trước đây, các lò gốm Bát Tràng dùng một loại gạch vuông ghép lại làm bao nung. Loại gạch này sau hai ba lần sử dụng trong lò đạt đến độ lửa cao và cứng gần như sành (đó chính là gạch Bát Tràng nổi tiếng).

Gần đây bao nung thường được làm bằng đất sét chịu lửa có mầu xám sẫm trộn đều với bột gạch hoặc bao nung hỏng nghiền nhỏ (gọi là sa mốt) với tỉ lệ 25–35% đất sét và 65–75% sa mốt. Người ta dùng một lượng nước vừa đủ để trộn đều và đánh nhuyễn chất hỗn hợp này rồi đem in (dập) thành bao nung hay đóng thành gạch ghép ruột lò. Bao nung thường hình trụ để cho lửa có điều kiện tiếp xúc đều với sản phẩm. Tuỳ theo sản phẩm mà bao nung có kích thước không giống nhau nhưng phổ biến hơn cả là loại có đường kính từ 15 đến 30 cm, dày 2–5 cm và cao từ 5 đến 40 cm. Một bao nung có thể dùng từ 15 đến 20 lần. Nếu sản phẩm được đốt trong lò con thoi hoặc lò tuynen, thường không cần dùng bao nung

III)Nhiên liệu bao gồm;

Đối với loại lò ếch có thể dùng các loại rơm, rạ, tre, nứa để đốt lò, sau đó Bát Tràng dùng kết hợp rơm rạ với các loại "củi phác" và "củi bửa" và sau nữa thì củi phác và củi bửa dần trở thành nguồn nhiên liệu chính cho các loại lò gốm ở Bát Tràng. Củi bửa và củi phác sau khi đã bổ được xếp thành đống ngoài trời, phơi sương nắng cho ải ra rồi mới đem sử dụng. Đối với loại lò đàn, tại bầu, người ta đốt củi phác còn củi bửa được dùng để đưa qua các lỗ giòi, lỗ đậu vào trong lò.

Khi chuyển sang sử dụng lò đứng, nguồn nhiên liệu chính là than cám còn củi chỉ để gầy lò. Than cám đem nhào trộn kĩ với đất bùn theo tỷ lệ nhất định có thể đóng thành khuôn hay nặn thành bánh nhỏ phơi khô. Nhiều khi người ta nặn than ướt rồi đập lên tường khô để tường hút nước nhanh và than chóng kết cứng lại và có thể dùng được ngay.

VI)Chồng lò:

Sản phẩm mộc sau quá trình gia công hoàn chỉnh được đem vào lò nung. Việc xếp sản phẩm trong lò nung như thế nào là tuỳ theo sản phẩm và hình dáng kích, cỡ của bao nung trên nguyên tắc vừa sử dụng triệt để không gian trong lò vừa tiết kiệm được nhiên liệu mà lại đạt hiệu nhiệt cao. Bởi cấu tạo của mỗi loại lò khác nhau nên việc chồng lò theo từng loại lò cũng có những đặc điểm riêng. Đối với loại lò ếch, người ta xếp sản phẩm từ gáy lò ra tới cửa lò, còn đối với loại lò đàn thì người ta xếp sản phẩm từ bích thứ 2 đến bích thứ 10 (riêng bích thứ 10 vì lửa kém nên sản phẩm thường để trần không cần có bao nung ở ngoài). Ở bầu cũi lợn (bầu đầu tiên) nơi giành để đốt nhiên liệu, có nhiệt độ cao nên đôi khi người ta xếp các loại sản phẩm trong các bao ngoại cỡ. Sản phẩm được xếp trong lò bầu giống như lò đàn. Riêng đối với lò hộp, tất cả các sản phẩm đều được đặt trong các bao nung hình trụ không đậy nắp và xếp chồng cao dần từ đáy lên nóc, xung quanh tường lò và chỗ khoảng trống giữa các bao nung đều được chèn các viên than.

Làng Bát Tràng xưa có các phường Chồng Lò, mỗi phường thường gồm 7 người (3 thợ cả, 3 thợ đệm và 1 thợ học việc). Họ chia thành 3 nhóm trong đó mỗi nhóm có 1 thợ cả và 1 thợ đệm, còn thợ học việc có nhiệm vụ bưng bao nung và sản phẩm mộc phục vụ cho cả 3 nhóm trên. Nhóm thứ nhất có nhiệm vụ chồng đáy (xếp bao nung và sản phẩm ba lớp từ đáy lên), nhóm thứ hai có nhiệm vụ chồng giữa (xếp ba lớp giữa), còn nhóm thứ ba là nhóm gọi mặt (xếp ba lớp cuối cùng ở vị trí cao nhất trong lò). Phường Chồng Lò ở Bát Tràng chủ yếu tập hợp những người thợ gốm ở Sài Sơn (Quốc Oai, Hà Tây) và Vân Đình (Mỹ Đức, Hà Tây) chuyên phục vụ chơ các lò gốm Bát Tràng.

V)Đốt lò:

Nhìn chung đối với các loại lò ếch, lò đàn, lò bầu thì quy trình đốt lò đều tương tự nhau và với kinh nghiệm của mình, người "thợ cả" có thể làm chủ được ngọn lửa trong toàn bộ quá trình đốt lò. Ở lò đàn khoảng một nửa ngày kể từ khi nhóm lửa người ta đốt nhỏ lửa tại bầu cũi lợn để sấy lò và sản phẩm trong lò. Sau đó người ta tăng dần lửa ở bầu cũi lợn cho đến khi lửa đỏ lan tới bích thứ tư thì việc tiếp củi ở các bầu cũi lợn được dừng lại. Tiếp tục ném củi bửa qua các lỗ giòi. Người xuất cả bằng kinh nghiệm của mình kiểm tra kỹ các bích và ra lệnh ngừng ném củi bửa vào bích nào khi biết sản phẩm ở bích đó đã chín. Càng về cuối sản phẩm chín càng nhanh. Khi sản phẩm trong bích đậu đã sắp chín thì người thợ cả quyết định ném dồn dập trong vòng nửa tiếng khoảng 9-10 bó củi bửa qua lỗ đậu rồi kết thúc việc tiếp củi. Trong phường đốt lò, người phường trưởng (xuất cả) phụ trách chung về kỹ thuật, hai người thợ đốt ở cửa lò (đốt dưới), bốn người chuyên ném củi bửa qua cấc lỗ giòi (đốt trên).

Sau khi nung xong người ta bịt hết các cửa lò, lỗ giòi, lỗ xem lửa để làm nguội từ từ. Quá trình làm nguội trong lò kéo dài 2 ngày 2 đêm, sau đó mới mở cửa lò và để tiếp 1 ngày 1 đêm nữa rồi mới tiến hành ra lò.


Đối với lò đứng, việc đốt lò trở nên đơn giản hơn nhiều vì khi hoàn tất khâu chồng lò cũng có nghĩa là đã kết thúc việc nạp nhiên liệu. Thế nhưng do đặc điểm của lò, người thợ đốt lò dù có dầy dạn kinh nghiệm cũng rất khó có thể làm chủ được ngọn lửa, đây thực sự là vấn ra khó khăn nhất trong khâu kĩ thuật ở làng Bát Tràng. Người ta dùng gạch chịu lửa bịt cửa lò lại rồi nhóm lò bằng củi. Lửa cháy bén vào than và bốc từ dưới lên. Than trong lò cháy hết cũng là lúc kết thúc công việc đốt lò. Thời gian đốt lò kể từ lúc nhóm lửa đến khi hoàn toàn tắt lửa kéo dài khoảng 3 ngày 3 đêm. Sau khi lò nguội, sản phẩm ra lò được đánh giá phân loại và sửa chữa lại các khuyết tật (nếu có thể được) trước khi đem ra phân phối sử dụng.

Gốm Kuru da rắn

GỐM RAKU DA RẮN : HỒ RAKU CẢN MÀU HAY TẠO HIỆU ỨNG NUNG KHỬ TRÊN BỀ MẶT SẢN PHẨM
Hồ Raku cản màu hay “Hồ tách lớp” hoặc “Raku da rắn” đều như nhau, nói về một kỹ thuật pha chế hồ Raku đặc biệt, được phết lên bán thành phẩm sơ nung trước khi nung chín để trong quá trình nung lớp hồ này co lại, nứt ra và rời khỏi thân sản phẩm tạo nên hiệu ứng hoa văn khói ( smoking patterns ) rất đặc biệt và bất thường trên bề mặt được hình thành trong quá trình xử lý khử lớp vỏ.

Nên nhớ với bất kỳ quá trình nung nào, đặc biệt là khi nung với ngọn lửa mở ( open flame ) bạn nên mặc trang phục bảo vệ và thực tập các bài tập an toàn phòng cháy.
Dùng tay để kẹp và xoay bán thành phẩm vừa xối hồ áo
Tôi bắt đầu say mê gốm Raku da rắn vào năm 1995 khi tham gia một khóa học kỹ thuật nung gốm nguyên khai tại xưởng gốm của ông Margot Spiegel Kramer, một thợ gốm Hà Lan. Đó chính là khoảnh khắc cốt lõi của cuộc đời tôi với đất, giống như tôi đi đến điểm tận cùng của con đường cụt và gặp được lối thoát. Rất nhanh chóng, khám phá mới mẻ này đã giúp tôi thay đổi hoàn toàn quan điểm vềgốm sứ. Những kiến thức mới đã giúp tôi mở ra những vấn đề trước đây tôi chưa tìm được đáp án như phương pháp xử lý bề mặt, tạo ra những hoa văn theo cách riêng của tôi thông qua lửa và khói. Sự cân bằng giữa việc cố gắng kiểm soát tối đa quá trình nung và sự bất lực trước ngọn lửa; mối liên kết giữa những hiệu ứng mong muốn cũng như những hiệu ứng không được trông đợi nguyên bản đã kích thích và cuốn hút tôi đến với gốm Raku da rắn. Giờ đây, sau nhiều năm mày mò nghiên cứu cộng với những kinh nghiệm trong thực tiễn đã giúp tôi khám phá ra những con đường và cách thức mới mà trước đây tôi chưa hề nghĩ ra.
Kỹ thuậtĐất để làm gốm Raku : đối với loại Raku trắng-đen, tôi dùng đất bán sứ nhiệt độ nung 13000C thông thường trên thị trường, còn riêng Raku vàng cam-đen tôi sử dụng loại đất đỏ nhẹ độ. Cả hai loại đất nói trên đều chứa tối thiều từ 15-20% rượu nặng loại tốt. Để làm bề mặt nhẵn và mượt mà, tôi luôn thích đánh bóng vì phương pháp này làm cho bề mặt khi nhìn vào có hiệu ứng sáng mờ phảng phất như vải satin mờ và trông sâu thẳm. Dụng cụ đánh bóng của tôi gồm những thẻ tín dụng, bầu đánh bóng nhẹ đủ kích cỡ-chủng loại và đá đánh bóng dẹt cho công đoạn cuối cùng.

Lớp hồ áo
Tôi sử dụng một lớp hồ trung gian tách biệt giữa men và cốt đất. Sau khi nung, lớp hồ lót hy sinh này sẽ được bóc ra, tạo nên hoa văn trên bề mặt của sản phẩm. Lớp áo này có thể được bệt, xịt , nhúng hoặc xối. Mỗi phương pháp đều có ưu điểm và khuyết điểm riêng. Và mỗi phương pháp phủ áo đều cho một độ dày lớp áo khác nhau. Phương pháp xối luôn là phương pháp tôi ưa thích nhất bởi vì với cách này tôi có thể dễ dàng kiểm soát được độ dày mỏng của lớp hồ áo và ít tốn thời gian. Nếu sản phẩm có thể kẹp chặt và xoay trở dễ dàng bằng tay thì chỉ cần một lần xối giáp vòng là đã có thể phủ xong lớp áo như hình minh họa bên cạnh.

Công thức hồ áo
Đất Pháp pha 10% rượu mạnh : 50%
EPK Kaolin                             : 30%
Silica                                        : 20%
Tổng                                        : 100%
Ghi chú : có thể dùng đất Laguna Buff, Highwater Phoenix hay Highwater Raku để thay thế cho đất Pháp.
Xối lớp men Raku phủ
Dùng đầu cọ nhễu men dày lên lớp hồ áo tạo hoa văn hoang dã
Lớp men phủ 
Lớp men phủ tôi luôn dùng công thức men Raku cổ điển của Will and Kate Jacobson vì nó cho kết quả tốt nhất. Tráng một lớp men phủ đều lên trên lớp hồ áo sẽ tạo hiệu ứng hoa văn rạn trên bề mặt sản phẩm. Tùy trường hợp, tùy dáng sản phẩm mà độ dày của lớp men phủ chỉ cần là một lớp hoặc phải nhiều hơn. Mỗi một phương pháp lên men cho một kết quả khác nhau. Tùy vào hiệu ứng mong muốn sau nung mà ta chọn phương pháp lên men cho phù hợp. Xối, dán hoa văn che men, dùng nến chắn men, dùng mủ để phá men…đều có thể áp dụng để kiểm soát hiệu ứng sau nung mong muốn. Chúng ta có thể áp dụng cách khác như dùng cọ để vẽ men lên lớp áo; dùng cọ để bắn, vẩy hoặc nhễu men lên lớp áo mà không để lông cọ chạm trực tiếp lên bề mặt sản phẩm ( như hình bên cạnh ). Đây chính là phương pháp tôi ưa thích và chọn để phát triển. Khi áp dụng kỹ thuật này lớp men phủ phải rất dày mới cho kết quả tốt nhất. Vết bệt càng rộng thì hiệu ứng càng rộng và rõ ràng trong khi nếu bệt càng mỏng thì lại tạo hiệu ứng giống như đường kẻ. Số lượng đường men khi bệt ảnh hưởng rất nhiều đến hiệu ứng sau nung cũng như lực cổ tay khi vẩy, búng men.

Công thức men phủ Raku da rắn của Will and Kate Jacobson
Gerstley Borate  : 35%
Ferro Frit 3110  : 65%
Tổng                  : 100%

Trong quá trình thử té men mỏng hơn lên những miếng gạch, tôi vô tình phát hiện ra rằng mình có thể tạo ra những vùng xám trên bề mặt. Thế là tôi quyết định phát triển nó bằng cách pha chế : từ hỗn hợp men ban đầu, tôi chiết sang những lọ khác nhau và pha thêm nước vào. Mỗi lọ chứa 100grs men khô và một lượng nước tăng dần từ 200grs, 250grs, 300grs … đến 450grs. Sau khi phủ men và nung như đã nói phía trên, những loại men được pha loãng này tạo nên những khoảng gam màu xám nhạt đến đậm nằm giữa hai tông màu trắng và đen nhìn rất thú vị và khác lạ. Trong khi té những lớp men mỏng này tôi thường cho chúng chồng mí lên nhau và dùng đầu ngọn cọ tốt bắn thêm men dày lên chỗ giáp mí này để tạo hoa văn hoang dã. Khuyết điểm của việc này chính là khi nung, hồ chỗ này có xu hướng bị carbon hóa rất mạnh trong suốt quá trình cháy do đó cần phải ngâm nước thật lâu kèm theo cọ rửa thật mạnh để làm sạch bề mặt. Lớp men vỏ trứng mỏng hầu như không thể nhìn thấy nên rất khó khăn để phán đoán được bằng mắt thường một cách chính xác nhiệt độ để kết thúc quá trình đốt.

Ghi chú : Một nét đặc trưng cơ bản của chậu Raku da rắn là có rất ít những điểm đốm đen “black dots” trên bề mặt khi nung. Những đốm đen tô điểm là những nét chấm phá làm nổi bật thêm cho bức tranh tổng thể nhưng nhiều quá cũng chưa hẳn là đẹp. Chúng được tạo thành bởi những bong bóng trong không khí, cũng có thể là trong hồ áo hoặc trong men. Những bong bóng lớn có thể được lùa sang bên thành của bể chứa hồ, bể chứa men còn những bong bóng nhỏ li ti thì có thể bị sót lại. Khi dùng máy khuấy hoặc máy trộn để quậy dung dịch đều trước khi sử dụng, các bọt khí li ti sẽ được hình thành trong suốt quá trình đảo trộn. Do đó tốt nhất trước khi sử dụng, cần cài đặt khuấy 24 tiếng và dùng thanh khuấy bằng gỗ khuấy đều và nhẹ nhàng trước khi trang trí để hạn chế tối đa bọt khí lẫn vào. Đôi khi bụi bẩn bám trên bề mặt sản phẩm trước khi xối hồ áo cũng tạo đốm đen. Muốn giảm thiểu tình trạng này, tốt nhất trước khi xối hồ áo chúng ta nên dùng hơi xịt bán thành phẩm đã nung non và dùng mút sạch lau nước lại lần nữa.



 
Lò nung tự chế và thanh kẹp sản phẩm
Lò nungTrong suốt thời gian tham quan và học hỏi tại các phân xưởng gốm, tôi đã có rất nhiều kinh nghiệm trong việc xây một cái lò để nung gốm Raku từ những lò nung kích thước lớn đến những lò nung dạng thùng rác nhỏ. Một trong những loại lò tôi ưa dùng là lò nung điện cũ tái chế lại. Bỏ những chi tiết và dây điện trở, cắt một lỗ để lắp béc lửa và một lỗ thông khói là ta đã có một cái lò vừa rất rẻ vừa hiệu quả. Còn tại nhà, tôi chế một cái trống rỗng khoảng 200 lít, lót hai lớp cách nhiệt mỗi lớp dày 2 inch bằng sợi gốm nhiệt độ thấp thành một cái lò nung có nắp chụp và chất sản phẩm vào ở trên nóc. Ban đầu tôi dùng béc đốt kiểu cũ đơn giản và rẻ tiền dạng ống điếu trong nhiều năm, sau đó tôi mới chuyển qua sử dụng béc đốt Ward, một loại béc đốt đắt tiền, béc chuyên dùng của những người thợ làm mái, nhưng cho kết quả nung rất tuyệt vời.

NungĐối với gốm Raku tiêu chuẩn, giai đoạn tiền nâng nhiệt ( sấy ) rất quan trọng. Trước khi nung, các bán thành phẩm phải được sấy nhẹ và chậm trong lò sấy để loại hết nước làm giảm thiểu tối đa nguy cơ bị nổ, vỡ trong giai đoạn tăng nhiệt. Với bất kỳ đường cong nung nào thì giai đoạn sấy đều rất quan trọng và tuyệt đối cần thiết. Sấy tự nhiên dưới ánh nắng mặt trời cũng không an toàn vì bán thành phẩm chưa khô tuyệt đối, vẫn còn một lượng ẩm nhỏ ẩn sâu bên trong, khi nung nâng nhiệt nhanh, lượng ẩm kia sẽ nhanh chóng hóa hơi và làm nổ tung sản phẩm. Trong suốt thời gian thực tập tại các phân xưởng gốm, thường bán thành phẩm có kích thước khá nhỏ nên tôi dùng một trong hai phương pháp sau để sấy phụ thuộc vào điều kiện có sẵn cũng như thời tiết. Phương pháp dễ dàng nhất chính là dùng lò điện lớn, bỏ bán thành phẩm vào và cài đặt nhiệt độ khoảng 1000C ( 2100F ) rồi sấy trong vòng 20 phút. Nếu không có lò điện sẵn, tôi sẽ dùng lò nướng thịt lớn sấy bán thành phẩm trong vòng 20-30 phút tùy độ dày cũng như kích thước của sản phẩm. Một khi đã sấy xong, bỏ bán thành phẩm vào lò nung đốt cho đến nhiệt độ đạt tới nhiệt độ yêu cầu của men - nhìn vào sản phẩm trông giống như một quả cam đỏ rực. Sau đó dùng thanh kẹp nhấc sản phẩm ra khỏi lò nung ( như hình bên dưới ).
Xứ lý nung khửĐối với dòng gốm Raku miền Tây tiêu chuẩn, thỉnh thoảng sản phẩm sau khi vừa gắp ra khỏi lò được vùi ngay vào đống mùn cưa mịn. Riêng đối với dòng gốm Raku da rắn, việc vùi sản phẩm đang cháy đỏ vào mùn cưa mịn gây hiệu ứng khử quá yêu cầu nên kết quả không đạt. Theo kinh nghiệm của tôi, để cho kết quả nung tốt nhất, nên dùng vật liệu khử là những vỏ dăm bào xoắn hoặc các mảnh gỗ mỏng và nhỏ. Thông thường tôi vốc một nắm tay vật liệu khử và rắc lên trên phần trên của chậu gốm hơn là vùi toàn thân sản phẩm vào đống vật liệu khử. Có rất nhiều lý thuyết nói về thời gian dìm sản phẩm trong khói bao lâu là thích hợp nhưng theo tôi nó không cố định mà khá linh động. Từ 5 - 6 phút là khung tối thiểu cho việc khử. Trong các phân xưởng gốm khác cũng như phân xưởng của tôi,  thời gian cho việc xử lý khử này kéo dài 10 - 12 phút nhằm để giúp quá trình khử được trọn vẹn cũng như làm nguội sản phẩm thêm tránh hiện tượng cạch gió. Đối với các sản phẩm dùng trong xây dựng hoặc các sản phẩm mỏng manh dạng dĩa, tấm thì thời gian ủ kéo dài khoảng 20 - 30 phút thậm chí 1 giờ. Tuy nhiên, việc ngâm sản phẩm trong khói đó cũng có nhược điểm là làm thay đổi màu sắc của cốt đất từ trắng sang màu da bò thậm chí chuyển hẳn sang màu xám nhạt. Trong suốt quá trình khử, để ủ khói, quá trình xử lý trên được thực hiện trong một hộp khử có nắp đậy và quấn xung quanh bằng khăn ẩm. Sau khi kết thúc việc xử lý khử, chúng ta bắt đầu cạo bỏ phần lớp men vỏ trứng bề mặt. Tiếp đến dùng nước để cọ rửa bề mặt để làm sạch tất cả vết tích của quá trình nung và xử lý khử cũng như những phần men, hồ áo còn sót lại. Đặc biệt, khi sử dụng phương pháp pha loãng và té men hay nhễu men dày như đã nói phía trên thì sẽ có những vùng rất khó vệ sinh chùi rửa nên phải ngâm thật lâu trong nước nhiều giờ liền, đôi khi phải ngâm qua đêm.
Dùng tay vốc một nắm nguyên liệu khử rắc đều lên bề mặt sản phẩm đang đỏ rực
Dùng khăn ướt quấn xung quanh hộp khử để ủ khỏi
Cạo bỏ lớp men vỏ trứng mỏng
Kết luận
Hầu hết những kiểu dáng và những bức tranh sơn dầu gốm sứ thể hiện nghệ thuật chạm trổ do tôi thiết kế đều gắn liền với sự thay đổi. Một vài bức biểu hiện thời khắc của sự biến đổi từ nước thành đá hoặc sắp chuyển sang dạng hơi. Một số khác thì cố gắng diễn tả sự rung lắc ở thời điểm máy bay tiếp đất hạ cánh từ không khí xuống mặt đất hay cố gắng lột tả thời khắc tích tụ áp suất ngay trước khi diễn ra vụ nổ từ một vật thể vỡ vụn thành từng mảnh nhỏ. Cuộc sống quanh ta luôn luôn thay đổi và không ngừng vận động. Và đó cũng là quan điểm của chính bản thân tôi về gốm sứ. Như một nhà giả kim thời Trung cổ, tôi cố gắng thao tác để điều khiển những biến đổi chưa từng được thuần hóa trong suốt quá trình xử lý nung để biến những vật liệu gốm sứ thành những vật thể dưới hình hài kích thước khác – những hỗn hợp sau cùng của sự pha trộn giữa những thực thể và mơ ước của con người.

 ( Theo Jennifer Harnetty, Ceramic Arts Daily )
Sản phẩm Raku da rắn hoàn thiện sau khi vệ sinh, chùi rửa và đánh bóng bề mặt

The Ancient Pottery Village of Thanh Ha

Legend has it that in the 16th and 17th centuries, artisans from Thanh Hoa Province settled in Hoi An and established the village. They practiced their traditional craft and handed it down to the present-day potters. Under the Nguyen Dynasty, the craft flourished, providing pottery products to provinces from Hue to Binh Dinh. At that time, the village’s products were also exported to Japan, China and Spain via the Hoi An Trading Port. According to the “Essays on the United Great Vietnam” of the Nguyen Dynasty in the 19th century, besides supplying tiles and bricks for the construction of houses in Hoi An, Thanh Ha villagers also produced pottery for Hue court to build temples and shrines.
A pottery kiln in Thanh Ha Village.
Making pottery products in the traditional way.
Children in Thanh Ha Village make pottery pigs.
Shaping animals.
Decorating pottery products.
Foreign tourists are interested in artistic pottery items produced by Thanh Ha villagers.
Artistic pottery products of Thanh Ha Village.

Previously, Thanh Ha pottery products were mainly functional like earthen pots, vases, cups, jars, bricks and tiles. However, to meet the increasing demand of the market, the Thanh Ha villagers now make diverse products of high artistic value. At present, the village has nearly 100 households engaged in the craft, making a contribution to preserving and developing the traditional craft. Furthermore, the village has become a destination for visitors on tour to Hoi An, a world cultural heritage site. 
Visiting the village, tourists not only see artisans making beautiful pottery products and learn about the process of making pottery products in the traditional way but also make their own products with instructions from the village’s artisans. 
According to Nguyen Thi Duoc, 88 years old, who is the most talented artisan in the village, there were times when many households used modern machines to produce ceramics but these products were not much sought after by customers. They finally realized that machines can make products more quickly but the products were repetitive and did not have the distinctive look or feel of the traditional.
Recently, Thanh Ha pottery products were granted the Certificate of Collective Brand Register by the Department of Intellectual Property under the Ministry of Science and Technology. This certification helps Thanh Ha Village promote the traditional craft and develop the local economic and tourist potential.


By Thong Thien – Hoang Giap

Thứ Tư, 19 tháng 6, 2013

Những di sản thời Hùng Vương ở xứ Đông

Là mảnh đất có bề dày lịch sử, xứ Đông còn gìn giữ hàng nghìn di tích lịch sử, di sản văn hóa có giá trị trong các thời kỳ dựng nước và giữ nước.
Chỉ tính riêng các di tích lịch sử, di sản văn hóa liên quan đến thời Hùng Vương đã có cả một kho tàng lớn.


Trống đồng phát hiện tại thôn Hữu Chung, xã Hà Thanh (Tứ Kỳ), di vật tiêu biểu cho văn hóa thời
 Hùng Vương trên địa bàn Hải Dương

Di tích lịch sử phong phú

Đình Cả thuộc phường Việt Hòa (TP Hải Dương) là nơi tôn thờ đức thánh Khai Thiên Thể Đạo, người có công giúp Hùng Vương thứ 18 dẹp giặc. Công trình nằm ở trung tâm khu dân cư với kiến trúc kiểu chữ đinh gồm 5 gian đại bái và hai gian hậu cung khang trang, to đẹp. Theo các bậc cao niên, đình trước kia được khởi dựng vào thời hậu Lê, trùng tu vào thời Nguyễn. Năm 1947, đình bị thực dân Pháp phá huỷ. Năm 2010, chính quyền và nhân dân khôi phục lại đình như ngày nay.

Về đình Cả những ngày đầu tháng 3 âm lịch, chúng tôi được hòa vào không khí náo nức chuẩn bị cho ngày khai hội truyền thống mồng 10-3. Anh Hồ Văn Thoan, cán bộ văn hóa phường Việt Hòa cho biết: Năm nay, ngoài lễ hội truyền thống, nhân dân Việt Hòa còn có thêm niềm vui là đón bằng công nhận đình Cả là di tích lịch sử văn hóa cấp tỉnh. Đây cũng là sự kiện nhân dân Việt Hòa hướng về ngày Giỗ Tổ Hùng Vương. Lễ hội sẽ có các hoạt động: tế mở cửa đình, rước kiệu thánh quanh khu dân cư, lễ đón bằng, cùng một số trò chơi dân gian.

Những người cao tuổi đình Hàn Bơi, phường Cẩm Thượng (TP Hải Dương) những ngày này cũng đang sắm hương hoa, lau rửa đồ tế tự. Đình Hàn Bơi cũng thờ tướng Khai Thiên Thể Đạo và mở hội vào dịp 10-3 âm lịch. Trong lễ hội cổ truyền nhân dân ở đình Cả và đình Hàn Bơi cùng tổ chức lễ rước ra bến sông Phương Độ sau đó tổ chức thi bơi chải giữa hai làng để tái hiện lại chiến công đánh thủy của tướng quân xưa. Năm nay, lễ hội đình Hàn Bơi không tổ chức lễ rước, các trò chơi dân gian, song vẫn tổ chức mở cửa đền để nhân dân và du khách thập phương về tế lễ.

Hướng về Ngày Quốc giỗ, trong dịp mồng 10-3 âm lịch, trên địa bàn tỉnh còn diễn ra hàng chục lễ hội tại các di tích lịch sử như: lễ hội đình Bảo Sài thờ Tiên Dung công chúa, con gái vua Hùng Vương 18 và Chử Đồng Tử, lễ hội đền Sượt, lễ hội đình Đinh Văn Tả (đều ở TP Hải Dương), lễ hội đình Huề Trì (Kinh Môn) thờ Thiện Nhân, Thiện Khánh, 2 chị em sinh đôi cùng tham gia cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng…

Thời kỳ Hùng Vương tỉnh ta thuộc bộ Dương Tuyền, một trong 15 bộ của nhà nước Văn Lang - Âu Lạc. Cùng với chiều dài lịch sử là nhiều di tích tôn thờ những nhân vật thời Hùng Vương đang hiện hữu tại các miền quê. Theo thống kê của Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch, trên địa bàn tỉnh ta có 100 di tích thờ các nhân vật thời kỳ Hùng Vương. Tiêu biểu phải kể đến đình Chí Linh, xã Nhân Huệ cùng 27 di tích khác ở Chí Linh thờ thần Cao Sơn, vị thần thuộc nội tộc Tản Viên thời Vua Hùng thứ 18; di tích thờ tam vị đại vương họ Phan, tướng thời Hùng Vương thứ 6 ở làng Cao Xá, xã Thái Hòa (Bình Giang)… Có thể tiểu sử các nhân vật được thờ chỉ là truyền thuyết, song hệ thống các di tích và những sinh hoạt văn hóa lễ hội đã minh chứng cho một thời kỳ dựng nước hào hùng trong lịch sử và có sức sống lâu dài trong cộng đồng người Hải Dương ta.

Nhiều di vật quý

Là vùng đất cổ, cùng với di tích, các lễ hội ở Hải Dương còn phát lộ hàng loạt di vật đồ đồng thời Đông Sơn. Theo các tài liệu lịch sử, Văn hóa Đông Sơn là nền văn hóa từng tồn tại ở một số tỉnh miền Bắc và Bắc Trung bộ mà trung tâm là khu vực Đền Hùng vào thời kỳ đồ đồng và đồ sắt sớm. Đây là thời kỳ nhà nước Văn Lang của các Vua Hùng và nhà nước Âu Lạc của An Dương Vương đã phát triển. Di vật đầu tiên là trống đồng Hữu Chung được phát hiện tháng 5-1961 khi người dân đào đất đóng gạch ở bờ sông Luộc, thôn Hữu Chung, xã Hà Thanh (Tứ Kỳ). Ông An Văn Mậu, Phó giám đốc Bảo tàng tỉnh cho biết: “Trống cao 67cm, đường kính mặt 82cm, đường kính chân 83cm, trọng lượng 75 kg, hoa văn phong phú. Sau khi khai quật, hiện vật hầu như còn nguyên vẹn và đang được lưu giữ tại Bảo tàng tỉnh. Trống Hữu Chung thuộc văn hóa Đông Sơn, có niên đại khoảng thế kỷ IV trước công nguyên (TCN). Đây là di vật tiêu biểu cho văn hóa thời Hùng Vương trên địa bàn tỉnh ta”. Cùng với đó là 2 trống đồng được phát hiện ở độ sâu 3m tại khu vực Mả Gạo, thôn Du Tái, xã Tiền Tiến (Thanh Hà) năm 1976. Sau khi khai quật được đặt tên là trống làng Gọp, xác định có niên đại cuối thế kỷ I TCN. Mới đây nhất là phát hiện trống đồng và thạp đồng ở thôn Hoàng Lại, xã An Lương (Thanh Hà) tháng 10-2005. Hai di vật đồ đồng trên được xác định có niên đại thuộc nền văn hóa Đông Sơn cách nay khoảng 2000 năm.

Những di chỉ Đồi Thông (xã Lê Ninh), Nhẫm Dương (xã Duy Tân, Kinh Môn), Dược Sơn (xã Hưng Đạo, Chí Linh) được phát hiện cũng là minh chứng cho kho di vật phong phú thời Hùng Vương ở tỉnh ta. Ở di chỉ Đồi Thông tìm được nhiều mũi tên, rìu và giáo đồng, niên đại khoảng đầu thiên niên kỷ thứ nhất TCN. Di chỉ Nhẫm Dương phát hiện công cụ, vũ khí bằng đá, đồng thuộc văn hóa tiền Đông Sơn và Đông Sơn. Di chỉ Dược Sơn phát hiện một bộ sưu tập đồ đồng gồm 1 chậu đồng có hoa văn tương tự trên trống đồng Đông Sơn và 5 nhạc đồng (còn gọi nhạc voi).

Cùng với đó, các di sản mộ táng La Đôi, Hợp Tiến (Nam Sách), Thượng Vũ (Kim Thành), Đông Quan, Tân Hưng (TP Hải Dương), mộ Kiệt Thượng (Chí Linh)… cũng là loại hình di sản văn hóa khá phong phú thuộc văn hóa Đông Sơn. Các ngôi mộ có hiện vật tùy táng bằng đồng như: rìu, dao găm, giáo, khiên dày đặc hoa văn văn hóa Đông Sơn. La Đôi được coi là nghĩa địa cổ thời văn hóa Đông Sơn.

Có một di sản thời Hùng Vương đến nay vẫn hiện hữu trong cuộc sống hiện đại và trở thành quốc hồn, linh vật của dân tộc Việt, đó là bánh chưng, bánh dày. Tại lễ hội mùa xuân Côn Sơn - Kiếp Bạc năm nay, Hội thi gói bánh chưng, giã bánh dày tỉnh Hải Dương lần thứ IV đã được tổ chức tưng bừng cùng với hội vật, hội thi pháo đất. Sau hội thi, các sản vật truyền thống đã được thành kính dâng trời đất, tổ tiên.

Hòa cùng không khí ngày Giỗ Tổ, những ngày này, ở tỉnh ta lạ

Công trình nghiên cứu Gốm Chu Đậu 30 năm sau nhìn lại

Cách đây 30 năm, khi nói đến Chu Đậu người ta thường nghĩ đến một làng nghề dệt chiếu cói cổ truyền hay một trạm bơm điện. Nay nói đến Chu Đậu, không chỉ người trong nước mà nhiều học giả nước ngoài, biết ngay đó là một trung tâm sản xuất ceramic mỹ nghệ nổi tiếng đất nước xưa và nay.


Gốm Chu Đậu
 Mới ngày nào chúng tôi lập dự án nghiên cứu gốm cổ Hải Dương căn cứ vào những hiện vật đã biết lưu tại kho Bảo tàng tỉnh, trong đó có sưu tập Đặng Huyền Thông và thông tin qua 13 chữ Hán ghi trên vai của một bình gốm hoa lam lưu ở Bảo tàng Hoàng gia Thổ Nhĩ Kỳ. Ngoài những hiện vật nói trên, chúng tôi không tìm được một dòng nào ghi trong quốc sử cũng địa phương chí. Sự việc như đáy bể mò kim, thế nhưng đến nay, không chỉ mò được kim dưới đáy bể mà còn tìm được nhiều sự kiện quan trọng cho quốc sử và những bảo vật cho quốc gia ngoài dự kiến ban đầu. Kể từ khi bắt đầu nghiên cứu, đến nay đã hơn 30 năm, tương đương với một cuộc đời hoạt động khoa học, bởi thế cũng nên nhìn lại một cách nghiêm túc trên 7 tiêu chí sau:
    1- Từ những hiện vật có minh văn lưu ở bảo tàng trong và ngoài nước mà có một dự kiến khoa học chính xác. Từ dự kiến khoa học đến lập chương trình nghiên cứu, rồi thực thi chương trình, phát hiện di tích vào tháng 9 năm 1983. Từ phát hiện di tích Chu Đậu- Trung tâm gốm mỹ nghệ cao cấp phục vụ Hoàng triều và xuất khẩu, tiến tới phát hiện 16 trung tâm gốm cổ khác trên đất Hải Hưng: Trạm Điền, Vạn Yên, Trụ Thượng, Kiệt Đoài, Làng Gốm (Chí Linh), Linh Xá, Làng Quao, Mỹ Xá ( Nam Sách), Phúc Lão, Ngói, Cậy, Bá Thuỷ, Hợp Lễ ( Bình Giang), Thanh Khơi, Quang Tiền (Gia Lộc), Xích Đằng (Phố Hiến) có niên đại từ TK XIII-XVII. Hầu hết những trung tâm này đã ngừng sản xuất từ nhiều thế kỷ.
    2- Công trình do cán bộ khảo cổ học địa phương thực hiện với kinh phí tối thiểu, trong 7 cuộc khai quật tại Chu Đậu và nhiều cuộc khai quật cùng thời, chỉ có một cuộc hợp tác với Trường ĐHTH Hà Nội và ĐHTH Adelai (Nam Úc). Hàng vạn hiện vật thu được trong quá trình nghiên cứu, lưu trữ tại bảo tàng tỉnh và Quốc gia, tạo cơ sở khoa học và hiện vật để xây dựng Bảo tàng tỉnh (1990) và Bảo tàng gốm Hải Dương (2009).
    3- Kết quả của công trình đã tạo cơ sở khoa học cho việc xác định niên đại và nguồn gốc cũng như nhận dạng gốm Việt Nam ở trong và ngoài nước một cách vững chắc, mà trước đó gặp không ít khó khăn, như: gốm trong các bảo tàng, trong hố khai quật ở Thăng Long và mọi miền đất nước; gốm trong các bảo tàng lớn trên thế giới cũng như trong các con tầu đắm, điển hình là gốm trong con tầu đắm ở biển Cù Lao Chàm (Quảng Nam).
    Cuộc khai quật ở biển Cù Lao Chàm( Quảng Nam) này gồm chuyên gia của nhiều nước tham gia, do Trung tâm KCH dưới nước của Anh thực hiện, kính phí của Công ty tầu biển Malaisia. Qua 3 năm khai quật (1997-1999), kết quả thu được trên 23 vạn bộ hiện vật lành, khoảng 10 vạn hiện vật vỡ, sau khai quật tiếp được thêm 10 vạn bộ. Tổng cộng trên 40 vạn hiện vật gốm với hàng nghìn mẫu vật khác nhau. Nhờ xác định gốm Cù Lao Chàm là gốm Chu Đậu nên sau khi xem xét đơn đề nghị, Bảo tàng Hải Dương được Nhà nước tặng trên 5.550 hiện vật của sưu tập này, đây là di sản văn hoá to lớn, kể cả giá trị tài chính.
    Trong số đồ gốm Cù Lao Chàm đấu giá ở Mỹ, giá sàn không có cái nào dưới 1000USD. Sự kiện này đã được thể hiện trong sách.
Treasures from the Hoi An Hoard Important Vietnamese Ceramics from a Late 15th/Early 16th Century Cargo
(Kho báu thu được từ Hội An-Những bảo vật quan trọng của Việt Nam ở cuối TK XV, muộn nhất là vào đầu TK XVI).
Bộ sách gồm 2 tập, xuất bản tháng 12 năm 2000 tại San Francisco và Los Angeles.
Sách giới thiệu hình ảnh và mô tả tóm tắt 2340 hiện vật gốm Chu Đậu khai quật tại Cù Lao Chàm, đấu giá tại Mỹ. Trong phiên đấu giá đầu tiên, con rồng men trắng hoa lam, cao 17cm, đã bán với giá 70.000USD, tương đương 1.400.000.000 VND. Nhiều kiều bào Việt Nam tại Mỹ đã mua làm kỷ niệm.
Cũng từ kết quả nghiên cứu này mà xác định được Sưu tập gốm mỹ nghệ TK XVI của Đăng Huyền Thông và Nguyễn Thị Đỉnh, quê thôn Hùng Thắng (Minh Tân-Nam Sách) thuộc trung tâm gốm Chu Đậu.
    4- Từ kết quả nghiên cứu, năm 2001, Xí nghiệp gốm Chu Đậu khởi công, năm sau đi vào sản xuất. Qua 10 năm hoạt động, xí nghiệp đã làm sống lại một trung tâm gốm mỹ nghệ từng giữ trọng trách trên 2 phương diện: phục vụ hoàng triều và xuất khẩu sang các nước Đông Á, Đông Nam Á và phương Tây. Sau 4 TK thất truyền, Gốm Chu Đậu đã tái sinh đầy sức sống và cũng đã làm được việc xuất khẩu như thủa trước một cách có hiệu quả. Năm 2010, sản xuất trên 4.500.000 sản phẩm, ngoài phần tiêu thụ nội địa còn xuất khẩu đến 17 nước trên các châu lục.
    5- Nhiều luận văn Cử nhân, Thạc sĩ, Tiến sĩ đã lấy Gốm Chu Đậu và gốm cổ Hải Dương làm đề tài. Nhiều tác phẩm văn học, nghệ thuật lấy cảm hứng từ quá trình nghiên cứu và giá trị nghệ thuật của Gốm Chu Đậu để sáng tác. Đặc biệt là, Gốm Chu Đậu đã được in trên Tem bưu chính Việt Nam (5 mẫu) và Hoa Kỳ (3 mẫu).
    6- Từ một hiện vật với 13 chữ Hán, sau 30 năm nghiên cứu đã tìm ra chủ nhân đích thực, trực tiếp của gốm Chu Đậu buổi đầu là Đặng Sĩ, Đăng Phúc và Nữ tài Bùi Thị Hý với đầy đủ bằng chứng bằng hiện vật và minh văn như: gia phả, bia ký, mộ chí..., đặc biệt là chiếc la bàn đi biển có dòng chữ:
    Châm bàn chu hải khứ- Bùi Thị Hý ( ). Đây là một bảo vật quốc gia, có ý nghĩa về hàng hải quốc tế to lớn. Những tư liệu nói trên là sự kiện vô cùng quan trong, xác định được chủ nhân của gốm Chu Đậu mà trước đây làm nhiều học giả phân vân, thậm chí nhận định sai lầm. Nhà khảo cổ học nổi tiếng của Nhật Bản là ông Hacebe khi thăm hiện vật và hố khai quật đã nói rằng: Sau khi phát hiện gốm Chu Đậu, tôi phải điểu chỉnh lại nhận thức của mình về gốm Việt Nam.
    7- Từ kết quả nghiên cứu gốm Chu Đậu mà biết được tình hình hàng hải, ngoại thương, thủ công nghiệp của Việt Nam ở TK XV, vấn đề mà sử liệu nước nhà rất mờ nhạt. Đặc biệt là vai trò của Nữ tài Bùi Thị Hý, một nhân vật nổi tiếng trên 4 lĩnh vực: Trí thức, Mỹ thuật, Hàng hải và Ngoại thương. Chỉ từ vài hiện vật có minh văn ban đầu, sau 30 năm đã nghiên cứu hoàn chỉnh một vấn đề quan trọng trong lịch sử dân tộc, có ý nghĩa và gia trị lớn trên nhiều phương diện: lịch sử, kinh tế, văn hoá, điển hình là nghệ thuật, kỹ thuật, ngoại thương, hàng hải...Sự hoàn thiện của vấn đề có giá trị rộng lớn và lâu dài mà khi bắt đầu nghiên cứu tưởng như đáy biển mò kim, dẫn đến sự khó tin của một vài người là điều dễ hiểu, nhưng vấn đề đã được chứng minh khá đầy đủ bằng hiện vật và minh văn không thể đảo ngược.
    Đây là những công trình có giá trị cao, rộng lớn, lâu dài về kinh tế, văn hoá, khoa học, chính trị, tư tưởng và xã hội ở trong và ngoài nước, góp phần giao lưu và hội nhập quốc tế về kinh tế và văn hoá với nhiều nước trên thế giới, tạo cho người Việt Nam hôm nay tự tin hơn trong việc hội nhật quốc tế. Có thể nói, cách đây 5 thế kỷ, ông cha chúng ta đã hội nhập thành công về công thương nghiệp. Thành tựu đó còn được chứng minh bằng những sưu tập gốm Chu Đậu lưu trong trên 40 bảo tàng lớn trên thế giới.
    Gốm Chu Đậu như bức thông điệp gửi đến các nước về một phương diện văn hoá của nước nhà thông qua những tác phẩm mỹ nghệ cao cấp, có sức hấp dẫn, lan toả rộng khắp và lâu bền. Không chỉ xí nghiệp Gốm Chu Đậu sản xuất theo truyền thống mà nhiều xí nghiệp gồm trên cả nước đã phỏng theo nhiều mẫu vật của Chu Đậu, trong đó trung tâm gốm Bát Tràng.
    Gốm Chu Đậu cổ cũng như hiện đại đã có trong các bảo tàng trong nước và ngoài nước, trong công sở và các sưu tập cá nhân, trên con đường gốm sứ Hà Nội, đặc phẩm trong kỷ niệm 1000 năm Thăng Long, đặc biệt là được trưng bày tại trụ sở Liên hiệp Quốc (theo báo ANTG), được bán đấu giá với giá khá cao trên thị trường Mỹ và Anh. Có thể nói, gốm Chu Đậu là một kênh để các nước tìm hiểu lịch sử, văn hoá Việt Nam.
    Cách đây 30 năm, khi nói đến Chu Đậu người ta thường nghĩ đến một làng nghề dệt chiếu cói cổ truyền hay một trạm bơm điện. Nay nói đến Chu Đậu, không chỉ người trong nước mà nhiều học giả nước ngoài, biết ngay đó là một trung tâm sản xuất gốm mỹ nghệ nổi tiếng đất nước xưa và nay. Chúng tôi đã tiếp hàng trăm đoàn tham quan, nghiên cứu gốm sứ nước ngoài thuộc các châu lục, mỗi người có một nhận định riêng, nhưng đều thống nhất rằng: Chu Đậu là một dòng gốm đẹp của Việt Nam và thế giới ở TK XV-XVI. Đặc biệt là ông TAKEDA, một kỹ sư điện của Nhật Bản đã nghỉ hưu, một ngành không liên quan gì đến khảo cổ cũng như đồ gốm, thế nhưng, gần 20 năm liên tiếp, năm nào ông cũng giành thời gian đến thăm Chu Đậu và nhưng di tích có liên quan như đến thăm một người bạn cố tri. Nhật bản có những con người như thế nên đã lưu trữ được nhiều cổ vật, trong đó có những hiện vật tiêu biểu của gốm Chu Đậu Việt Nam.

Toanthangpottery.com.vn sưu tầm
Tags: Pottery & Ceramic

Gốm Chu Đậu - Sự tiếp nối truyền thống

Về Hải Dương khi nói về gốm người ta nghĩ ngay tới gốm Chu Đậu - Một dòng ceramic mỹ nghệ cao cấp không chỉ của Việt Nam mà còn cả thế giới. Gốm Chu Đậu thuộc dòng ceramic cao cấp, tinh xảo có giá trị kinh tế lớn từng tồn tại và phát triển đến cực thịnh vào thế kỷ XV - XVI. Đến đầu thế kỷ XVII, do những biến động về xã hội và thị trường, gốm Chu Đậu bị thất truyền.

Sau hơn 500 năm thất truyền, nhằm khôi phục lại một dòng gốm quý, biến nơi đây thành trung tâm gốm sứ của Việt Nam, khu du lịch làng nghề, thúc đẩy phát triển kinh tế của cả một vùng chỉ có nông nghiệp là cơ bản. Nhưng quan trọng và cao cả hơn là muốn truyền bá văn hóa Việt Nam ra với bè bạn trên thế giới. Năm 2001, Tổng công ty Thương mại Hà Nội (Hapro) được sự đồng ý của tỉnh Hải Dương đã thành lập Xí nghiệp gốm Chu Đậu (nay là Công ty Cổ phần gốm Chu Đậu) với tổng vốn đầu tư giai đoạn 1 là 24 tỷ đồng. Trong những năm đầu, hoạt động sản xuất kinh doanh gặp nhiều khó khăn do nghề gốm bị thất truyền đã lâu, bí quyết công nghệ không còn, đội ngũ công nhân chưa có tay nghề…Xí nghiệp phải mở các lớp đào tạo, mời các nghệ nhân về truyền nghề, đầu tư nghiên cứu các bài men cổ, xương cốt, kỹ thuật sản xuất, đồng thời gửi công nhân đi học tại các làng nghề.
Sau một thời gian dài đầu tư xây dựng, đào tạo, phỏng chế gốm cổ Chu Đậu, tháng 5/2003, Xí nghiệp gốm Chu Đậu đã xuất khẩu lô hàng đầu tiên sang thị trường Tây Ban Nha. Từ đó đến nay, mỗi năm xí nghiệp sản xuất ra hơn chục triệu sản phẩm. Các sản phẩm gốm sản xuất ra không chỉ tiêu thụ mạnh trong nội địa mà còn xuất đi trên 50 quốc gia thế giới như: Châu Âu, Nga, Đức, Hàn Quốc. Xí nghiệp đã tạo việc làm cho hàng trăm lao động địa phương với thu nhập ngày càng được nâng cao, sản xuất liên tục đạt tốc độ tăng trưởng. Đến nay, sản phẩm mang thương hiệu gốm Chu Đậu Hapro đã trở lên quen thuộc trên thị trường trong nước và quốc tế.
Cùng với việc khôi phục dòng gốm cổ, Xí nghiệp gốm Chu Đậu chú trọng phát triển du lịch làng nghề, thu hút khách du lịch. Xí nghiệp đã xây dựng gian trưng bày với 1.000m2 giới thiệu các sản phẩm phục chế theo các mẫu gốm cổ gồm: Bình, ang, chậu, bát... Năm 2009, Tổng công ty Thương mại Hà Nội đã đầu tư xây dựng giai đoạn 2 gồm các hạng mục: Không gian vườn gốm thư pháp, Đào Tổ linh từ, nhà bát giác, xưởng sản xuất số 2, kho hàng xuất khẩu. Công trình được UBND TP Hà Nội quyết định gắn biển: Công trình chào mừng kỷ niệm Đại lễ 1000 năm Thăng Long - Hà Nội”.
Gốm Chu Đậu ngày nay kế thừa tinh hoa văn hoá cha ông để lại, sản xuất theo dây chuyền hợp lý, với kỹ thuật phục nguyên nhiều màu sắc cổ kết hợp với những kiểu dáng men mới, hoa văn họa tiết phù hợp với thẩm mỹ đương đại, đáp ứng thị hiếu khách hàng. Hiện tại, gốm Chu Đậu chủ yếu sản xuất theo phương pháp thủ công truyền thống với 3 dòng sản phẩm chính:      
Mặt hàng phục chế theo các mẫu cổ, tâm linh: Các loại độc bình, bát hương, mâm bồng...
Mặt hàng gia dụng: Bát đĩa, ấm chén…
Mặt hàng xuất khẩu: Chậu hoa các loại…
Hai trong số hàng chục sản phẩm gốm Chu Đậu gây ấn tượng, trở thành sản phẩm nổi tiếng được ưa chuộng nhất với người sành đồ cổ là bình gốm hoa lam (còn gọi là bình củ tỏi) và bình tỳ bà. Ngoài ra, những sản phẩm khác như: Bình cúp Ngũ Hành, ấm rượu Rồng, hũ Hổ Phù, ông (cụ) bình vôi, cây Đèn Vua, đèn Hậu… cũng là những sản phẩm làm nên giá trị văn hóa cho thương hiệu gốm Chu Đậu.
Gốm Chu Đậu ngày nay không sản xuất đồng loạt, dùng máy mà hoàn toàn được làm thủ công bằng tay. Để tạo ra một sản phẩm gốm, sứ tạm chia làm 4 bước và quá trình này như sau:
* Nguyên liệu
 Để làm lên sản phẩm gốm đạt đến độ chắc, đẹp, kết khối tốt, đất được lấy từ mỏ đất sét Trúc Thôn - Chí Linh. Đây là mỏ đất được hình thành theo phương pháp rửa trôi, được phong hóa nên có nhiều vi lượng khoáng chất, ít tạp chất và được đánh giá có chất lượng tốt nhất thế giới. Khi đất được chọn lọc sẽ đem nghiền trong bể rã, tiếp đó qua bể lắng (tại đây người ta vớt bẩn, cặn ở trên và dưới bể đi) sau đó chuyển qua bể lọc và cuối cùng là bể ủ. Nguyên liệu cũng có thể được làm theo cách hiện đại hơn đó là cho vào những quả nghiền bi nghiền nhuyễn thành hồ. Trong quá trình làm nguyên liệu các oxit sắt (chất này làm cho sản phẩm có mầu đen) bị bay hơi và loại dần, cuối cùng hồ tinh khiết sẽ được chuyển qua bộ phận tạo hình.
* Tạo hình
  Tạo hình thường dùng hai cách chuốt tay và đổ khuôn. Hiện nay, để có năng suất cao người ta thường dùng phương pháp đổ khuôn. Tuy nhiên, để có một sản phẩm mang tính nghệ thuật cao người ta thường vuốt bằng tay. Sản phẩm được dỡ từ khuôn mang ra chỉnh sửa sấy khô, mài nhẵn và chuyển qua khâu trang trí họa tiết.
* Trang trí họa tiết
Để tạo cho sản phẩm đẹp mắt và cũng là nét đặc trưng của từng lò gốm, trang trí có thể là khắc chìm, đắp nổi hay vẽ. Cách trang trí họa tiết của Chu Đậu có nét đặc trưng riêng, phản ánh trung thực đời sống, tín ngưỡng, đạo giáo, triết lý và tâm hồn người Việt. Họa tiết của gốm Chu Đậu được Đại tướng Võ Nguyên Giáp tổng kết bằng câu “Gốm Chu Đậu tinh hoa văn hóa Việt Nam”.
*.Nung đốt.
Sau khi trang trí họa tiết, sản phẩm được phủ men và công đoạn cuối cùng là cho vào nung đốt với nhiệt độ trung bình là 12500C (có sản phẩm nung tới 14500C). Đây là giai đoạn khá quan trọng vì tất cả các khâu đã được hoàn tất nếu có một chút sơ suất trong quá trình nung, đốt thì sản phẩm coi như bỏ đi.
Hằng năm, Chu Đậu đón hàng ngàn lượt khách trong và ngoài nước đến thăm quan và mua sản phẩm của xí nghiệp làm quà lưu niệm. Thương hiệu gốm Chu Đậu Hapro trở thành quen thuộc, thân thiết với nhiều khách hàng Việt Nam và quốc tế. Xí nghiệp gốm Chu Đậu đang là điểm hấp dẫn du khách đến thăm quan, mua sắm, trở thành địa danh trong bản đồ du lịch của tỉnh Hải Dương.

Liên hệ mua gốm sứ:
Công Ty TNHH MTV Gốm Sứ Toàn Thắng 
Địa Chỉ : 55/1 Kp Bình Phú, P. Bình Chuẩn, TX Thuận An, Bình Dương
Điện thoại: 0650.378.9338 - Fax: 0650.378.9338
Tags: Pottery & Ceramic

Gốm Chu Đậu mang hồn đất Việt, với vẻ đẹp kiêu sa làm lay động lòng người

Gốm là dòng sản phẩm được rất nhiều người Việt Nam ưa chuộng với nhiều tầng lớp trong xã hội. Sản phẩm từ gốm rất đa dạng, độc đáo từ những đồ dùng hàng ngày như: bát, đĩa, chén,... đến những chiếc bình trang trí tạo ấn tượng cho ngôi nhà với vẻ đẹp cổ kính mang hồn đất Việt.

Gốm Chu Đậu-Mỹ Xá, còn được biết đến là gốm Chu Đậu, là gốm sứ cổ truyền Việt Nam đã được sản xuất tại vùng mà ngày nay thuộc làng Chu Đậu và làng Mỹ Xá, thuộc các xã Minh Tân (làng Mỹ Xá) và Thái Tân (làng Chu Đậu), huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương.



Gốm Chu Đậu dưới bàn tay của nghệ nhân
Loại gốm sứ này thường được nhắc đến với tên gốm Chu Đậu là do lần đầu tiên người ta khai quật được các di tích của dòng gốm này ở Chu Đậu. Sau này, khi khai quật tiếp ở Mỹ Xá (làng bên cạnh Chu Đậu) thì người ta phát hiện ra khối lượng di tích còn đa dạng hơn và có một số nước men người ta không tìm thấy trong số các di tích khai quật được tại Chu Đậu. Gốm Chu Đậu là dòng gốm nổi tiếng vì màu men và họa tiết thuần Việt. Nó đã từng xuất khẩu sang nhiều nước châu Âu. Năm 1997 sau khi tìm được rất nhiều gốm Chu Đậu trong con tàu đắm ở Cù lao Chàm (tỉnh Quảng Nam) của người Bồ Đào Nha dòng gốm này mới được biết đến và nổi tiếng.
Tại Mỹ Xá, gia phả dòng họ Vương có ghi câu "...tổ tiên...lấy nghề nung bát làm nghiệp". Câu này hiện được lưu lại trong bảng ghi lịch sử dòng gốm sứ này tại Xí nghiệp gốm sứ Chu Đậu.
Xí nghiệp Gốm Chu Đậu là một đơn vị thuộc Tổng Công ty Thương mại Hà Nội (Hapro), xí nghiệp được thành lập năm 2001 với nhiệm vụ khôi phục và phát triển nghề gốm Chu Đậu tại chính làng Mỹ xã, nơi có nghề Gốm cổ. Sau tám năm hoạt động, đến nay xí nghiệp đã sản xuất ra hàng trăm mặt hàng, xuất ra hơn 20 nước trên thế giới.
Những kiểu dáng gốm Chu Đậu
Gốm Chu Đậu là dòng gốm đẹp, cao cấp của Việt Nam và thế giới, nó được phát triển rực rỡ trong suốt một thời gian dài vào thời kỳ Lý, Trần, Lê, Mạc. Nét đặc trưng của Gốm Chu Đậu thể hiện ở kiểu dáng, màu sắc, hoa văn và các họa tiết tinh xảo. Gốm Chu Đậu toát lên vẻ đẹp dung dị của người Việt Nam, một bản sắc thuần Việt biểu trưng của nền văn minh châu thổ sông Hồng.
Sản phẩm đặc trưng nhất của Gốm Chu Đậu cổ là chiếc bình hoa lam và bình Tỳ bà, còn được gọi là bình Cha, bình Mẹ, tượng trung cho tín ngưỡng Phồn thực - Âm dương - Trời đất - Vợ chồng. Bình Tỳ bà mang dáng hình cây đàn Tỳ bà đại diện cho tính âm, đất, mẹ, hiện thân của nguời phụ nữ Việt Nam dịu dàng, hiền thục, nết na; họa tiết lông chim Lạc quanh miệng bình thể hiện truyền thống con Hồng cháu Lạc; vai bình vẽ họa tiết Ngũ hành (kim, mộc, thủy, hỏa, thổ); thân bình thể hiện tứ quý bốn mùa (tùng, cúc, trúc, mai) và sóng nước Bình Than; phần chân bình được tạo bởi những họa tiết cánh sen, một nét đặc trưng của Phật giáo và vẻ đẹp Việt Nam. Bình hoa lam thể hiện tính dương là chồng, là cha, là trụ cột, là nền tảng, là chỗ dựa vững chắc cho gia đình và xa hơn nữa là trời đất vũ trụ; hoa văn trang trí trên bình là hoa cúc đại đóa, thể hiện người chính nhân quân tử
Những chiếc bình hoa lam và bình tỳ bà
Gốm Chu Đậu được coi là gốm đạo, gốm bác học, nó thắm đượm văn hóa vật chất tâm linh, in đậm dấu ấn những giá trị nhân văn của Phật giáo, Nho giáo, Đạo giáo. Những hoa văn trang trí trên Gốm Chu Đậu khiến người xem cảm nhận được bản sắc văn hóa của người Việt Nam, muông thú, cỏ cây, hoa lá Việt Nam, non sông gấm vóc Việt Nam. Trong một phiên đấu giá tại Mỹ, chiếc bình gốm Tỳ bà cổ Chu Đậu cao 24 cm đã được bán với giá 512.000 USD; chiếc bình cổ Hoa lam Chu Đậu hiện lưu giữ tại viện bảo tàng Topkapi Saray Istanbul Thổ nhĩ Kỳ được mua bảo hiểm hàng triệu USD. Hiện nay rất nhiều hiện vật Gốm Chu Đậu cổ đang được trân trọng lưu giữ tại 46 bảo tàng danh tiếng trên thế giới.
Sau hơn 500 năm thất truyền, Gốm Chu Đậu đã và đang được hồi sinh phát triển, làm sống lại tầm cao của Gốm Chu Đậu xưa, đáp ứng sự mong mỏi của đông đảo nguời yêu văn hóa Việt Nam trong nước và quốc tế
Sản phẩm của Xí nghiệp Gốm Chu Đậu có thể chia ra 3 loại chính như sau:
Đồ gốm Phục cổ: Là đồ gốm có mẫu mã và công nghệ phỏng theo các báu vật vớt được từ chiếc thuyền đắm tại Cù lao Chàm, Hội An, và các sản phẩm Gốm Chu Đậu cổ lưu giữ tại các viện bảo tàng nổi tiếng trên thế giới. Ngoài hình dáng và họa tiết đặc trưng, lớp men loại này được tạo ra từ các vật liệu thiên nhiên, sau khi nung có mầu vàng ngà rạn chân chim. Các sản phẩm loại này bao gồm đồ gốm nội thất (lọ hoa …), đồ thờ cúng (lư huơng, bình vôi…)
Đồ gốm Đương đại: Là đồ gốm làm theo phong cách hiện đại nhưng vẫn giữ bản sắc văn hóa Việt Nam… Đặc trưng của sản phẩm loại này là hình dáng và họa tiết cách điệu, hiện đại, mầu sắc phong phú. Sản phẩm loại này nhiều nhất là chậu hoa
Đồ gốm đất gan gà: Là sản phẩm dùng chất liệu chính là đất phù sa mầu gan gà lấy từ sông Kinh Thầy; sản phẩm không sử dụng men, lớp ngoài của đất trong khi nung sẽ tự tiết ra lớp men bóng màu xám gan gà đặc trưng.
Với sự đa dạng về mẫu mã, chủng loại Gốm Chu Đậu hân hạnh được phục vụ khách hàng trong và ngoài nước. Khi đến với xí nghiệp Gốm Chu Đậu quý khách sẽ lựa chọn được cho mình những sản phẩm ưng ý nhất, chất lượng tốt nhất và giá cả phải chăng và sự phục vụ tận tình từ công ty.


Liên hệ mua gốm sứ:
Công Ty TNHH MTV Gốm Sứ Toàn Thắng 
Địa Chỉ : 55/1 Kp Bình Phú, P. Bình Chuẩn, TX Thuận An, Bình Dương
Điện thoại: 0650.378.9338 - Fax: 0650.378.9338
Tags: Pottery & Ceramic

Gốm sứ thời Mạc.

Nhà Mạc thay thế nhà Lê sơ đã biết lựa theo xu thế của thời cuộc, bớt đi những cấm đoán khắt khe của tư tưởng Nho giáo. Phật giáo và Đạo giáo được phục hồi phát triển. Nhà Mạc đã cho kiến trúc tôn tạo nhiều đình chùa, xây dựng hàng trăm tấm bia đá và hàng trăm tượng Phật. Sự mở mang về mặt đường lối chính sách của nhà Mạc là yếu tố có tác dụng gián tiếp tạo điều kiện cho việc phát triển kinh tế. Nhà Mạc đã không theo chính sách "Trọng nông ức thương" như nhà Lê  trước đó. Những chợ địa phương, những trung tâm buôn bán, một số cảng sông được mở rộng thông thương, thương thuyền đi lại tấp lập, xuất hiện nhiều những phường thợ, nhiều những làng nghề, kích thích thợ thủ công sáng tạo ra những tác phẩm những sản phẩm mang đậm tính nhân văn và mang sắc thái riêng của thời Mạc:
                                        "...Công nghệ mại thương chi phát triển.
                                          Bách tính âu ca. nhất thời Ngu Thuấn..."
.
    Dịch nghĩa "... Các nghề công nghệ buôn bán đều phát triển.
                                      Trăm họ vui ca như thời Ngu Thuấn.
                                               (Trích bia Quảng Hoà, chùa Bảo Phúc)
Đáng kể nhất ở thời kỳ này là nghề thủ công gốm sứ, đặc trưng là sứ hoa lam. Những làng gốm Vĩnh Bảo, Hải Dương, Bát Tràng, Thổ Hà... được mở ra và đã thu hút nhiều khách hàng gần xa.
Bên cạnh những sản phẩm gia dụng: Bát, đĩa, lọ, âu, ang, chén phục vụ cho tầng lớp bình dân, còn có những sản phẩm mang tính tạo hình và mỹ thuật cao để nâng uy tín nghề nghiệp từ một vùng lên uy tín nghề nghiệp trong cả nước và trên trường quốc tế.
Gốm thời Mạc còn nằm rải rác nhiều nơi trên đất nước ta, ở nhiều khu vực Đông Nam Châu Á và một số bảo tàng Châu Âu. Với các sản phẩm mang hình các con giống như: gà, cá, chim, voi, nghê, phượng... sự phong phú về thể loại cho thấy: từ những hình tượng thực tế trong cuộc sống đã được những nghệ sĩ dân gian ý tưởng cách điệu trở thành những đường nét độc đáo đậm tính nghệ thuật. Dưới bàn tay tài hoa của họ, những đường nét hoa văn được thể hiện tinh hơn, chuốt hơn, kỹ hơn, điều này thấy cả trong nét vẽ và nét điêu khắc thời Mạc trên các bình lọ, chân đèn, nghê sứ...
Có thể trong sáng tác người đương thời đã quan tâm nhiều về cải tiến kỹ thuật, sao cho sản xuất nhiều mặt hàng để phục vụ buôn bán trao đổi. Cụ thể với chiếc bát, lòng bát tạo ra một đường vòng không men để chất thành những chồng bát khi cho vào lò nung được nhiều mà người dân nghề làng gốm có câu "Ve lòng cắt giò".
Cây đèn lớn được làm thành vài ba bộ phận tách rời nhau khiến từ khi sản xuất đến đóng gói vận chuyển rất tiện lợi. Ngay cả đến khâu trang trí người ta cũng quan tâm tới việc sản xuất được nhiều. Người ta đã tạo khuôn hình con rồng, phượng và các hoa văn được in ra từ đất sau đó đem dán vào quanh cây đèn trước khi nung, chính men làm với các mẫu vẽ phóng bút cũng đã đáp ứng được những công việc trên. Các sản phẩm thời kỳ này mang tính đại trà như bát đĩa, ấm, lọ, bình... song có không ít những đồ độc đáo, mang tính đại diện cho cả thời kỳ Mạc. Nổi trội là ấm hình muông thú như nghê, cá, chim. Trước hết phải kể đến hình ấm cá cõng tôm được tạo tác với ba màu xanh, lục, vàng nâu trên nền men trắng ngà rạn. Cá ngậm vòi cõng tôm trên lưng, càng tôm ôm lấy vòi (vòi ấm hình dung như một con giun). Ấm cá cõng tôm được đánh giá là một vật dụng của lớp người có địa vị cao trong xã hội. Do vậy kiểu ấm này cũng không nằm ngoài sự ảnh hưởng của xã hội chuyển tải cho nó, lúc này không thể không nhắc tới sự phân tranh Trịnh  - Mạc, làm nảy sinh ước muốn một xã hội yên bình, không tranh giành quyền lực. Hình tượng cá cõng tôm cùng sống trong ao hồ cùng nhau ăn con mồi là giun (vòi ấm) sẽ được hiểu: mọi người cùng chung sống để cùng hưởng hạnh phúc. ấm cá cõng tôm cũng để rót rượu mừng như là một vật dùng làm sứ giả của hoà bình.
Một loại ấm độc đáo khác có thể kể đến, đó là ấm tạo hình nghê ngồi chống hai chân lên quả cầu tròn, cổ nghê gắn với vòi ấm được dựng lên từ hình cầu. Mình ấm được phủ một màu men lam rạn bóng, dày, trong.
Men lam bóng đặc trưng cho thời Mạc còn làm trên các vật dụng cao cấp khác như: chân đèn trang trí rồng cuốn và có hoa văn. Men lam được giới Nho sĩ trong xã hội rất ưa thích. Nó biểu hiện một màu xanh nơi non xa là nơi ẩn dật của các cư sĩ đồng thời mang sắc màu thanh y (áo khoác) của họ và đó là màu chung của các ẩn sĩ phương Đông. Những chiếc ấm nghê này đều được tìm thấy ở những vùng núi xa xôi như Quản Bạ, Bắc Mê (Hà Giang), vùng núi Thiên Thai ở Bắc Ninh. Con nghê theo quan niệm trong dân gian là một con vật minh triết (thông minh) mạch lạc, linh thiêng, nó được hiểu theo nghĩa soi rọi những tâm hồn của khách thập phương mỗi khi đi qua cửa đền chùa.
Ở thời này ta còn gặp một vài dạng ấm mang hình con giống khác nhau như: ấm con gà, ngựa... tôm, các bình, lọ, âu, ang mang những hình dáng khác nhau nhưng đặc trưng vẫn là lọ mang dáng hình "đàn tỳ bà"màu men trắng ngà với nét hoa văn trang trí cách điệu từ lá, uốn lượn bay bổng ngược chiều nhau tạo thành nhịp điệu hình chữ S nối tiếp nhau bằng những dây lá và những bông hoa nhỏ 4 cánh, 6 cánh tạo được điểm nhấn, dẫn đến sự hoàn chỉnh cả hình dáng lọ và đường nét hoa văn trang trí.
Chân đèn thời Mạc
Dưới thời Mạc những người thợ thủ công - những nghệ sĩ tạo hình dân gian được hết sức tự do, cởi mở trong sáng tạo, trong sản xuất, ý thức vai trò trong cá nhân thời này được tôn trọng và có bước phát triển mới. Thợ thủ công đóng dấu tên mình trên sản phẩm, đặc biệt là các đồ gốm, đồ sứ. Việc ghi họ tên và quê quán trên sản phẩm chứng tỏ người nghệ sĩ đã được quyền xác định vị trí của  mình trong xã hội. Trên sản phẩm có ghi cả tên quê quán những người đặt hàng ở nhiều vùng quê khác. Ví dụ: Chiếc chân đèn bằng gốm do Đặng Huyền Thông sản xuất năm 1580 có ghi tên người đặt hàng Nguyễn Thị Liên và Vũ Thị Dương xã Phú Thuận huyện Đường An, phủ Thượng Hồng (nay thuộc Cẩm Bình, Hải Dương) nhiều người ở các vùng quê khác cũng ký tên, địa chỉ, niên đại lên sản phẩm.
Đồ gốm của Đặng Huyền Thông nơi gần Dương Kinh nhà Mạc với nhiều sản phẩm được mọi người dân ở các vùng lân cận như: Hà Tây, Hải Dương, Thăng Long... yêu thích đến đặt hàng cùng thời gian này tại trung tâm gốm sứ Bát Tràng những tên nghệ nhân còn được ghi lại nhiều trên gốm sứ như: Đỗ Xuân Vị, Đỗ Phủ, Hoàng Ngưu, Nguyễn Phong Lai, Bùi Thị Đổ, Bùi Hạc...
Ceramic thời Mạc nói chung đã xác định vị trí của đồ gốm là một bộ phận khá hấp dẫn trong nền kinh tế hàng hoá. Nó đánh dấu một thời kỳ thịnh trị của đất nước ở thế kỷ XVI - Kỷ nhà Mạc.
Liên kết: Bảng giá Seo - Du hoc Nhat Ban - Pottery - Giay nam - Giay nu - Đào tạo seo - học tiếng Anh