Quảng cáo trực tuyến - đào tạo seo - căn hộ The Park Avenue

Chủ Nhật, 19 tháng 5, 2013

Làng gốm Bát Tràng trong cơn bão giá

Giá cả leo thang khiến người tiêu dùng thắt chặt chi tiêu. Các mặt hàng xăng, dầu, điện, ga... liên tục tăng giá, ảnh hưởng lớn đến cuộc sống người dân cũng như đầu ra của các sản phẩm gốm sứ Bát Tràng. Bằng sự nỗ lực và nhiều hình thức cải tiến sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm, người dân làng nghề Bát Tràng vẫn hi vọng vượt qua được cơn bão giá.
Nhìn các gian hàng giới thiệu sản phẩm gốm sứ Bát Tràng thấy tấp nập người ra vào, ít ai nghĩ rằng nhiều sản phẩm tồn kho. Theo người dân làng nghề cho biết, các sản phẩm thường bán chạy vào dịp cuối năm, tháng Giêng, các tháng còn lại tiêu thụ cầm chừng. Năm 2011, được dự báo là năm khó khăn của làng gốm Bát Tràng. Do sức ép về kinh tế, các mặt hàng đang bị chững lại, nhưng người dân trong làng đều quyết tâm tìm đầu ra, cân đối giá thành, nguyên vật liệu cũng như tiền lương thuê nhân công.

Hoàn thiện một sản phẩm gốm sứ, phải trải qua gần chục công đoạn như tạo hình, tạo khuôn, vẽ mĩ thuật…mỗi khâu thủ công như vậy đều phải có thợ riêng. Tiền thuê công nhân dù mới vào nghề cũng mất 100.000 đồng/ ngày, còn thợ có tay nghề tính theo sản phẩm. Cơn bão giá các mặt hàng lên cao, từ nguyên liệu đến vận chuyển, lương công nhân cũng theo thế mà tăng.

Khu chợ trưng bày gốm sứ Bát Tràng có đến hơn 100 gian hàng nhưng chỉ thấy khách đến mua làm quà lưu niệm, rất ít xe công ten-nơ, xe tải đến mua với số lượng lớn. Bà Trần Thị Nễ, 73 tuổi, làm nghề gốm sứ hàng chục năm nay, chia sẻ: “Giá cả tăng nhanh, sản xuất ra một sản phẩm chi phí tăng gấp nhiều lần so với trước. Để khỏi bị thua lỗ, chúng tôi đành phải tăng giá thành. Nếu như năm 2010 một đôi bình có giá 2 triệu thì nay lên tới 6 triệu”. Nhà bà Nễ có hai xưởng sản xuất, hai gian hàng bày bán sản phẩm. Đồ gốm sứ nhà bà sản xuất hầu hết đều hướng về những sản phẩm truyền thống, hoa văn tinh xảo. Giá trung bình cho một sản phẩm là 8 triệu đến 9 triệu đồng. Khách hàng thường là các đại lí, đình chùa, một số còn xuất khẩu sang Đài Loan, Mỹ, Đức… Thông thường các loại sản phẩm như cốc, ấm chén, lọ hoa… thì lượng tiêu thụ nhiều hơn, bởi giá cả phù hợp với túi tiền người tiêu dùng.

Các cơ sở sản xuất gốm sứ Bát Tràng phải hứng chịu trực tiếp của việc tăng giá điện, ga, xăng dầu, vận chuyển. Ông Cương chủ một cơ sở sản xuất gốm sứ cho biết: Xưởng của tôi có 40 công nhân, tiền lương và tiền mua nguyên liệu mỗi tháng phải chi không dưới 100 triệu đồng. Sức ép chi phí buộc tôi phải tăng giá thành sản phẩm, cho nghỉ bớt thợ hoặc gọi họ khi cần thiết… Còn ông Nguyễn Quốc An, hoạ sĩ chuyên vẽ hoa văn trên chất liệu gốm sứ cho biết: “Thợ có tay nghề như tôi thu nhập còn khá (trên dưới 10 triệu đồng/ tháng) chứ những người mới vào nghề thì thấp lắm!

Tìm đầu ra cho các sản phẩm ở trong và ngoài nước là mục tiêu chung của các cơ sở, công ty gốm sứ. Ban đầu, do ít kinh nghiệm lại chưa quen với cung cách làm ăn mới và những yêu cầu nghiêm ngặt của đối tác từ chất lượng đến thời hạn giao hàng, nhiều ông chủ trẻ đã phải lao đao vì bị phạt hợp đồng, bị đối tác lừa đảo. Nhiều xưởng phải đóng cửa vì ít vốn, vì không có tiền trả nợ cho ngân hàng. Những nghệ nhân cao tuổi cắt cử nhau đến động viên, hướng dẫn cho lớp thợ trẻ bí quyết để đồ gốm đạt chất lượng. Các cụ cao tuổi trong làng đã hiến kế, hiến công với lãnh đạo xã, đề nghị chính quyền tạo điều kiện cấp đất mở xưởng, quan hệ với ngân hàng để có thể vay vốn mở rộng sản xuất. Nhiều cụ đã tình nguyện trở thành giáo viên mở lớp dạy nghề hâm nóng bầu nhiệt huyết của lớp thanh niên trong làng, giúp họ biết yêu và trân trọng nghề truyền thống.

Bát Tràng hôm nay đã có rất nhiều ngôi biệt thực, những đơn đặt hàng trị giá hàng tỉ đồng. Gốm Bát Tràng vượt thời gian, không gian có mặt trên mọi quốc gia. Làng gốm Bát Tràng trở thành một trong những địa chỉ đỏ của ngành du lịch Việt Nam. Có ngày làng đón hàng trăm, thậm chí hàng ngàn lượt khách trong và ngoài nước đến thăm, mua bán. Chị Thu Thuỷ, một khách hàng cho biết: “ Tuy giá cả tăng, mọi người đều thắt chặt chi tiêu nhưng những mặt hàng thiết yếu như bát, ấm chén… thì vẫn cần thiết cho cuộc sống hằng ngày. Đặc biệt đồ gốm Bát Tràng đã đạt đến độ tinh xảo. thuần khiết. Ăn bát cơm, uống chén nước… được làm từ chất liệu Ceramic Bát Tràng, tôi như cảm nhận được hương đất, tình người hoà quyện”.
 
Theo www.ktdt.com.vn

Bát Tràng giải bài toán ô nhiễm

Đã là làng nghề thì không tránh được tình trạng ô nhiễm môi trường. Vậy, cách làm nào vừa thúc đẩy kinh tế phát triển mà lại khắc phục được ô nhiễm trong xây dựng làng nghê truyền thống ở nước ta hiện nay? Câu hỏi trên sẽ được trả lời phần nào khi tham quan công nghệ lò nung gốm bằng ga của làng nghề gốm sứ Bát Tràng (Gia Lâm, Hà Nội).
Một thời khói than

Đến Bát Tràng ngày nay, chúng ta có thể thoải mái căng lồng ngực hít thở không khí trong lành mà không lo sợ thứ mùi khét lẹt của khói than xộc vào hai lá phổi. Và để dễ hình dung so sánh Bát Tràng xưa và nay, hãy quay ngược thời gian trở lại với Bát Tràng khoảng chục năm về trước qua ký ức của chính những người trong cuộc thì mọi chuyện sẽ rõ. 

Những nghệ nhân trung tuổi ở làng gốm Bát Tràng kể lại, trước đây hơn 700 hộ sản xuất ở Bát Tràng đều nung gốm bằng công nghệ lò hộp truyền thống. Do vật liệu đốt chính là than, thời gian nung gốm kéo dài từ 3 - 5 ngày nên các lò phải hoạt động liên tục hết công suất gây ô nhiễm môi trường trầm trọng. Chưa dừng lại ở đó, lò hộp còn thải chất rắn công nghiệp tàn phá cây xanh, công trình xây dựng, trở thành một trong những tác nhân chính làm gia tăng các bệnh về ung thư và đường hô hấp. 

Ông Đào Xuân Hùng, Chủ tịch UBND xã Bát Tràng cho hay, trước năm 2006, Bát Tràng tiêu thụ hết khoảng 4.000 tấn than/năm, xả ra môi trường hàng trăm mét khối khí và nước thải chưa qua xử mỗi ngày khiến ao hồ, kênh mương ở Bát Tràng toàn một màu đen kịt, cá tôm không thể sống sót. Khi một số tổ chức y tế và môi trường công bố kết quả điều tra thì người ta mới ngã ngửa ra rằng, cứ năm người dân Bát Tràng thì có một người mắc bệnh liên quan đến khói than từ các lò nung gốm. Điều đó khiến bà con nơi đây tìm cách thay đổi công nghệ khi sự việc chưa quá muộn. 

Gốm sứ bát tràng
Một cửa hàng trưng bày gốm sứ mỹ thuật bát tràng

Phát triển gắn liền với bảo vệ

Quay trở lại hiện tại khi nói về làng gốm Bát Tràng, Chủ tịch xã Đào Xuân Hùng nở một nụ cười hãnh diện dẫn tôi đi tham quan công nghệ lò nung ga tiến tiến nhất nước ta hiện nay. Ông Hùng cho biết: Đầu năm 2006, Ban quản lý dự án nâng cao hiệu quả sử dụng năng lượng trong các doanh nghiệp vừa và nhỏ thuộc Bộ KH- CN phối hợp cùng Hiệp hội Gốm sứ và UBND xã Bát Tràng triển khai dự án “Thúc đẩy ứng dụng lò ga nung gốm tiết kiệm năng lượng” nhằm khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường ở làng nghề Bát Tràng. 

Nhờ ưu điểm làm bằng sợi bông thuỷ tinh, có hệ thống cách nhiệt và xử lý chất thải khí cực kỳ hiệu quả giúp giảm chi phí sản xuất, giảm tiêu hao nhiên liệu, tiết kiệm thời gian nung, tỷ lệ thu hồi sản phẩm cao nên từ năm 2007 - 2008 xã Bát Tràng triển khai được 40 dự án đầu tư xây dựng lò nung ga theo công nghệ mới này. Từ năm 2008 - 2010, số lượng lò nung ga công nghệ mới tăng một cách chóng mặt, từ 40 dự án lên hơn 600 dự án. Theo kết quả điều tra mới nhất của xã Bát Tràng, hiện trên 95% các hộ sản xuất gốm ở Bát Tràng đã chuyển từ lò đốt than sang công nghệ lò nung ga. 

Nghệ nhân Trần Ngọc Hưng giải thích cặn kẽ cho chúng tôi lợi ích sát sườn công nghệ lò ga mang lại. Trong khi đốt bằng than mất từ 3 - 5 ngày khói lò mù mịt một góc trời, xỉ than chất cả đống cao ngất thì lò ga chỉ mất có 26 tiếng cả đốt và dỡ lò mà không khí vẫn trong veo, phế phẩm phụ gần như không có. Mặt khác, lò ga điều chỉnh được nhiệt độ bên trong lò nên không chỉ màu gốm đẹp hơn mà tỷ lệ thu hồi sản phẩm khi nung gốm bằng ga cũng lên tới trên 90%, trong khi nung bằng than chỉ đạt dưới 70%. Chính vì hiệu quả lớn như vậy nên chi phí xây dựng một lò nung ga hiện từ vài trăm triệu cho đến cả tỷ đồng nhưng người dân bát Tràng vẫn mạnh dạn đưa vào áp dụng.
Làng nghề Ceramic Bát Tràng giờ trở thành một trong những tên tuổi có uy tín và thương hiệu lớn mạnh hàng đầu về gốm sứ trong và ngoài nước. Đóng góp cho thành công này không thể không nhắc tới việc mạnh dạn đưa lò nung ga thay thế lò than truyền thống tại đây. Kinh tế Bát Tràng phát triển đến đâu ai cũng biết, còn vấn đề nhức nhối là ô nhiễm môi trường giờ cũng được giải quyết.
Theo nongnghiep.vn

Thần kỳ Bát Tràng

Để lột tả sức vươn lên đáng kinh ngạc về kinh tế của Nhật Bản sau thất bại ở Thế chiến thứ II, các nước trên thế giới đã phải dùng thuật ngữ: Thần kỳ Nhật Bản. Ở nước ta cũng vậy, trong khi hầu hết các làng nghề thất điên bát đảo sau cuộc khủng hoảng kinh tế năm 2008 thì làng gốm Bát Tràng (Gia Lâm – Hà Nội) lại có một bước phát triển tuyệt vời.
chợ gốm bát tràng
Cổng chợ gốm Bát Tràng
Cũng giống như mọi làng nghề truyền thống khác, Bát Tràng không thoát được tầm ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu đã len lỏi tới từng ngõ ngách của đời sống. Nhưng nhờ có những quyết định, chủ trương kịp thời sáng suốt, mạnh tay đầu tư vào khoa học kỹ thuật và mạng lưới phân phối, làng gốm Bát Tràng không những không bị sụt giảm về số lượng và doanh thu, mà ngược lại, uy tín của Bát Tràng cứ tăng lên vùn vụt.

Chúng ta vừa tiến hành tổng kết 1 năm cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam” và kết quả đem lại rất khả quan. Nhưng xin thông báo rằng, làng gốm Bát Tràng đã làm công việc này cách đây ba năm. Chủ tịch UBND xã Bát Tràng Đào Xuân Hùng cho biết, khi cuộc khủng hoảnh kinh tế thế giới bắt đầu manh nha, nhận thấy việc phụ thuộc quá lớn vào thị trường xuất khẩu rủi ro vô cùng lớn nên đầu năm 2007, các hộ sản xuất gốm ở Bát Tràng đã xây dựng ở hầu hết các tỉnh thành trong cả nước đại lý uỷ quyền chuyên bán sản phẩm và quảng bá thương hiệu gốm Bát Tràng.

Ông Hùng đúc kết, đây chính là mấu chốt giúp Bát Tràng thoát được cơn khủng hoảng ba năm về trước. Điều đó đã được chứng minh, chỉ sau một thời gian ngắn bắt tay vào kinh doanh ở thị trường nội địa, một thị trường mới mẻ lâu nay vẫn bị bỏ quên, Bát Tràng đạt được ngay thành công mỹ mãn. Thương hiệu tên tuổi của gốm Bát Tràng đã lan rộng khắp nơi, sản phẩm gốm sứ Bát Tràng sản xuất ra không đủ hàng để bán.

Theo nghệ nhân Trần Độ, một yếu tố khác giúp Bát Tràng gặt hái được thành công như ngày hôm nay phải kể đến sự mạnh tay đầu tư của người dân Bát Tràng. “Trong khi các làng nghề khác vẫn dùng phương pháp nung gốm bằng lò than truyền thống, gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng thì ở Bát Tràng 90% các hộ sản xuất đã chuyển sang công nghệ lò nung ga. Mặc dù chi phí đầu tư một dây chuyền, công nghệ lò nung ga lên tới cả tỷ đồng nhưng hiệu quả mà nó đem lại vô cùng to lớn. Ưu điểm của lò nung ga làm giảm chi phí nguyên liệu, nhiệt của lò ga rất cao và đều, có thể thoải mái điều chỉnh nhiệt độ nên chất lượng men gốm nung ra rất đẹp, mịn, ít có lỗi”- ông Độ nói.

"Đừng quá phụ thuộc vào thị trường nước ngoài, nên quay về thị trường nội địa để cân đối cung cầu"- đó là khuyến cáo của  TS Lê Đức Thịnh (số báo trước tác giả nhầm viết thành Lê Khắc Trịnh), Viện Chính sách và Chiến lược phát triển nông nghiệp nông thôn rút ra từ những nghiên cứu về sự phát triển của làng gốm Bát Tràng. Cụ thể, những năm 1996 – 2004 thị trường xuất khẩu chiếm tới 60 - 80% tổng số sản phẩm tiêu thụ của Bát Tràng thì năm 2008 giảm xuống 30% và 2009 chỉ còn 20%. Bên cạnh đó, hộ nghề, câu lạc bộ, hiệp hội DN ở Bát Tràng đã biết bắt tay vào việc quảng bá sản phẩm trong nước từ 2006. Đến 2008/2009, khắp cả nước đã có hệ thống đại lí, phân phối của Bát Tràng (DN, hộ nghề, đứng cùng một tên) bán hàng dưới thương hiệu Bát Tràng.
TS Lê Đức Thịnh:

Tư duy hỗ trợ làng nghề đã không còn phù hợp. Mỗi loại nghề có nhu cầu hỗ trợ khác nhau, chính vì vậy Nhà nước phải có chương trình dài hơi, tổng hợp thay vì tư duy đề án như hiện nay. Tư duy phát triển làng nghề phải gắn với phát triển công nghiệp. Hộ nghề phải là xương sống của làng nghề, không thể bị gạt ra khỏi các chính sách như hiện nay.
Theo nongnghiep.vn

Nhận biết đồ sứ có sử dụng chì

Đồ sứ bị nhiễm chì có ảnh hưởng rất lớn đến sức khỏe trong khi sử dụng. Nhưng để cắt giảm chi phí, tiết kiệm thời gian trong quá trình nung các sản phẩm từ gốm sứ và để chúng có hoa văn đẹp mắt nhiều nhà sản xuất đã cho thêm chì vào trong quá trình nung nấu. Dưới đây là bí quyết phân biệt đồ sứ nhiễm chì.
Theo thống kê của cục Quản lý Chất lượng Sản phẩm (Bộ Khoa học và Công nghệ) trên thị trường hiện có tới 80% sản phẩm bát đĩa, cốc, bình nước uống...bằng gốm sứ, thủy tinh, pha lê có nguồn gốc xuất sứ từ Trung Quốc. Tuy nhiên, các sản phẩm này lại được gắn nhãn mác của các nước Tây Âu như: Đức, Pháp, Ý...với giá bán cao ngất ngưởng. Đặc biệt, là các sản phẩm này thường có hàm lượng chì vượt mức quy định, có khả năng gây nguy cơ nhiễm độc cao cho người tiêu dùng.Theo thống kê của cục Quản lý Chất lượng Sản phẩm (Bộ Khoa học và Công nghệ) trên thị trường hiện có tới 80% sản phẩm bát đĩa, cốc, bình nước uống...bằng gốm sứ, thủy tinh, pha lê có nguồn gốc xuất sứ từ Trung Quốc. Tuy nhiên, các sản phẩm này lại được gắn nhãn mác của các nước Tây Âu như: Đức, Pháp, Ý...với giá bán cao ngất ngưởng. Đặc biệt, là các sản phẩm này thường có hàm lượng chì vượt mức quy định, có khả năng gây nguy cơ nhiễm độc cao cho người tiêu dùng.
Càng nhiều hoa văn, càng độc
Giải thích về vấn đề này, TS. Nguyễn Duy Thịnh, Viện Công nghệ Sinh học - Công nghệ Thực phẩm cho biết, các thí nghiệm cho thấy đồ gốm sứ hoa văn càng sặc sỡ thì hàm lượng chì càng lớn.
Bởi thủy tinh nung trên 1.000 độ C thường không có màu. Ly cốc tách đẹp rực rỡ là do nhà sản xuất cho thêm chì vào vừa tạo màu, vừa giảm nhiệt độ nung để tiết kiệm năng lượng. Chì còn được tráng bên ngoài để nhờ tính chất truyền sáng làm đồ thủy tinh đẹp long lanh. Nguy hiểm nhất là những sản phẩm có hình in sát mép cốc vì chì dễ xâm nhập vào cơ thể khi người sử dụng ăn, uống, đặc biệt là trẻ nhỏ.
Ấm chén Trung Quốc
Ly cốc càng có nhiều hoa văn thì càng độc. Ảnh minh họa: internet
Ngoài ra, đồ gốm sứ tráng men thủ công nếu nung ở nhiệt độ thấp cũng có thể gây nhiễm độc chì cho người dùng. Nguyên nhân là vì thông thường, gốm phải nung ở nhiệt độ từ 1.200 - 1.500 độ C. Nhưng nếu pha thêm chì chỉ cần nung ở 800 - 1.100 độ C đã được một lô thành phẩm, vừa tiết kiệm được năng lượng, vừa có sản phẩm hoa văn đẹp mắt.
Vì vậy, những sản phẩm nung thủ công càng rẻ tiền thì quy trình càng không chuẩn, thậm chí bị cắt giảm để tiết kiệm thời gian, chi phí nên đồ càng độc. Những sản phẩm độc hại này càng thôi nhiễm chì cao nếu đựng đồ ăn nóng, chua, nước hoa quả... bởi ở nhiệt độ cao, có axít, kiềm muối sẽ làm chì nhanh chóng giải phóng, thôi nhiễm vào thức ăn và gây độc cho cơ thể.
Cũng theo TS. Nguyễn Duy Thịnh, nên cẩn trọng với những ly, cốc được thiết kế riêng độc đáo làm quà tặng hiện đang được nhiều người ưa chuộng bởi hoa văn được dán, vẽ lên men phải nung ở nhiệt độ thấp để giữ màu nên không loại bỏ được độc tố chì trong sứ.

Thử độ độc với giấm và nước

TS. Trần Hồng Côn, Khoa Hóa (ĐHQG Hà Nội) cho rằng, hàm lượng chì trong đồ thủy tinh lớn, gặp điều kiện thuận lợi có thể thôi ra, thâm nhập và tích lũy trong cơ thể, làm ảnh hưởng đến hệ thần kinh, máu, gây nhiễm độc nặng, thậm chí tử vong. Nếu tiếp xúc với môi trường axít, kiềm hoặc nhiệt độ cao các nguyên tử bề mặt có xu hướng tách ra hòa lẫn vào thực phẩm, nước. Nhiệt càng cao, chì càng bị kích hoạt tách ra nhiều hơn.
Hàm lượng chì ở ly, cốc, bát đĩa có thể xâm nhập vào cơ thể qua đường hô hấp, tiêu hóa và qua da khi người cầm, nắm sản phẩm.
Để đảm bảo an toàn cho sức khoẻ, TS. Nguyễn Duy Thịnh khuyến cáo nên mua bát đĩa gốm sứ chất lượng cao, màu trắng, ít hoa văn, trơn nhưng không quá bóng loáng.

Nên dùng hàng có thương hiệu, nguồn gốc rõ ràng, ghi rõ hàm lượng chì (nếu có) trên bề mặt.
Hạn chế dùng bát đĩa tráng men màu trong lòng bát. Khi thấy bát đĩa sần sùi, bong tróc lớp men bóng, hoặc rạn thì nên mua bát mới (bởi men chì nhanh bị mài mòn, hàng chợ càng chóng bị bong tróc men, phai màu và hàm lượng chì thoát ra nhiều và ngấm hết vào thức ăn, rất nguy hiểm cho người dùng).
Không dùng bát đĩa gốm sứ để làm chín thức ăn trong lò vi sóng vì nhiệt độ trong lò làm chất độc trong gốm sứ dễ tan hơn. Không nên để dưa chua trong đồ gốm sứ, mà nên để trong lọ thủy tinh.

Với đồ thủy tinh, tránh những đồ long lanh, bắt mắt. Chỉ nên dùng sản phẩm thủy tinh không có lớp sơn bọc lòe loẹt ở ngoài (vì lớp tráng có thể nhiễm chì). Nên dùng hàng có thương hiệu, nguồn gốc rõ ràng, ghi rõ hàm lượng chì (nếu có) trên bề mặt.

Ngoài ra, người tiêu dùng cũng có thể kiểm tra độ nung và kim loại nặng độc của bát đĩa Ceramic bằng cách: Ngâm bát vào dung dịch giấm ăn, nếu bát có dấu hiệu trắng ra hoặc giấm đổi màu thì không nên dùng. Hoặc đổ một ít nước vào chỗ không tráng men (có thể là đế bát), nếu hút nước nhanh tức là xương bát nung không đủ nhiệt. Nếu bát không hút nước là bát tốt.
Với đồ thủy tinh, sản phẩm chứa chì độc hại thường khi gõ vào nghe tiếng rất vang như đồ kim khí. Hàng thủy tinh nguyên chất không có tiếng kêu coong coong.

TS. Nguyễn Công Khẩn, Cục trưởng Cục ATVSTP (Bộ Y tế) cũng khuyến cáo không nên sử dụng cốc, ly thủy tinh không rõ nguồn gốc xuất xứ. Ly cốc, bao gói thực phẩm bằng nhựa nên chọn loại màu trắng chuyên dành cho thực phẩm.
Theo Edu.go

Cách ốp lát gạch gốm mosaic


Ốp lát các tấm gạch gốm sứ Mosaic có sự chuẩn bị như các loại gạch ốp lát khác: Bề mặt nền nhà hay tường nhà phải phẳng và nhẵn. Ốp lát gạch gốm Mosaic không giống như ốp lát các loại gạch đá có kích thước lớn. Ốp lát gạch gốm Mosaic cần sự tỉ mỉ đến từng viên đá nhỏ vì thế mạnh của gạch gốm Mosaic được thể hiện ngay cả trên các đường cong phức tạp hay các góc cạnh tưởng chừng không thể ốp lát được. Chính điều này mang đến cho người sử dụng cảm giác thích thú khi đắm mình vào không gian nhiều màu sắc và chiều sâu bất tận với tính thẩm mỹ cao.
Để có một công trình ốp lát gạch gốm mosaic đẹp có tính thẩm mỹ cao theo mong muốn của bạn chúng tôi tư vấn các bước ốp lát như sau:
B/ CÁC BƯỚC THI CÔNG MOSAIC
Trước hết dùng băng dính hoặc vật liệu khác dán che đi những vị trí không cần ốp lát tránh việc bị keo và bột chà mạch dính bẩn. Sau đó: 
Bước 1-Dùng bay chát xi măng hoặc keo dán vào khu vực cần ốp lát với lượng xi măng và keo dán vừa đủ
Bước 2- Đặt vỉ gạch gốm Mosaic  lên bề mặt cần ốp lát và chỉnh cho đúng mạch của các viên.
Bước 3- Để làm khít  các điểm nhỏ trên toàn bộ bề mặt, nên cắt các tấm lưới thừa ở xung quanh viên gạch gốm Mosaic để tất cả các viên  có thể tiếp xúc với nhau. Bạn cũng có thể lấy các viên đơn lẻ để ghép vào những vị trí bị trống.
Bước 4-  Chờ ít nhất 24h để khô toàn bộ trước khi tiến hành trà mạch
Bước 5-Dùng bay phẳng để trà mạch sau khi tất cả các mạch giữa các  được phủ bằng  bột trà mạch đã được đánh nhuyễn.
Bước 6- Để chờ sau 20 phút. Sau đó dùng bọt biển có tẩm nước hoặc miếng mút ẩm lau sạch những hỗn hợp bột trà mạch còn bám trên bề mặt gạch gốm Mosaic
Bước 7- Tiếp tục lau sạch hỗn hợp bột trà mạch bằng miếng bọt biển hoặc miếng mút ẩm cho đến khi viên đá Mosaic hiện rõ bề mặt và màu sắc
Bước 8- Để vị trí ốp lát được khô sau 24h sau đó bóc bóc băng dính hoặc tấm chắn dán lúc đầu ra để lau sạch toàn bộ một lần nữa trước khi đưa vào sử dụng.
Top Google: Pottery & Ceramic

Làng gốm Mạo Khê và chuyện làm du lịch


Ở Mạo Khê hiện nay có 2 cơ sở sản xuất Pottery  nổi tiếng nhất, đó là Công ty cổ phần Thái Sơn 88 và Công ty cổ phần Quang Vinh. Hai cơ sở này cung cấp hàng trăm nghìn sản phẩm gốm sứ mỹ nghệ ở trong nước cũng như xuất khẩu ra nước ngoài... Làng gốm Mạo Khê và chuyện làm du lịch
Ở Mạo Khê hiện nay có 2 cơ sở sản xuất gốm sứ nổi tiếng nhất, đó là Công ty cổ phần Thái Sơn 88 và Công ty cổ phần Quang Vinh. Hai cơ sở này cung cấp hàng trăm nghìn sản phẩm gốm sứ mỹ nghệ ở trong nước cũng như xuất khẩu ra nước ngoài.

Mạo Khê giờ đây nổi tiếng với nghề gốm sứ, nhưng sẽ còn nổi tiếng hơn với tư duy làm ăn, bởi họ đã vượt qua mặc cảm của chính mình để vươn ra khỏi “lũy tre” vốn còn tồn tại ở rất nhiều làng nghề trong cả nước. Việc tập trung hình thành các cơ sở mạnh đã cho thấy những bước đi vững chắc của một làng nghề truyền thống.
Những người dân có nghề làm gốm sứ nhưng không có vốn liên kết lại với nhau để tư duy, sản xuất ra những mặt hàng có giá trị kinh tế cao. Trước đây, nghề gốm ở Mạo Khê hình thành chủ yếu là sản xuất các sản phẩm mang tính chất gia dụng như dùng để chứa đựng, và sử dụng trong cuộc sống hằng ngày, chỉ có một số ít là để ngắm.
Nhưng bây giờ, cách làm ăn đó đã xoay ngược lại, họ xác định cần phải làm ra những sản phẩm đẹp, ấn tượng thì mới có giá trị kinh tế cao. Nói là làm, những người dân Mạo Khê cùng với các doanh nghiệp lớn tại đây đã cho ra đời những sản phẩm gốm sứ chủ yếu mang tính chất trang trí.
Ấn tượng nhất khi chúng tôi đến Mạo Khê là cách làm gốm sứ ở đây luôn được thay đổi theo thị hiếu của thị trường.
Đấy là lý do vì sao khi đến Mạo Khê, khách như lạc vào thế giới của gốm sứ. Hầu như không sản phẩm nào giống sản phẩm nào. Trong hàng nghìn sản phẩm được trưng bày, mỗi sản phẩm có một nét khác biệt, tùy theo từng đối tượng khách hàng mà họ đưa sản phẩm ra.
Ngoài ra, gốm Mạo Khê đã có hướng đi cho riêng mình để đáp ứng nhu cầu thưởng thức của khách hàng trong nước và nước ngoài, đó là sản xuất gốm mỏng. Việc sản xuất gốm mỏng đáp ứng được các tiêu chuẩn: sử dụng nguyên liệu ít, thời gian nung không lâu, sản xuất nhanh, nhưng giá bán lại cao hơn rất nhiều lần.
Chẳng hạn, một đôi bình giả cổ sản xuất theo công nghệ cũ, lượng sét để làm nhiều hơn, thời gian nung lâu hơn và công sức bỏ ra cũng nhiều hơn. Nay chuyển sang sản xuất gốm mỏng, vừa là để giữ được “của thiên nhiên” ban tặng, vừa cải tiến chế độ làm việc và bước đầu tiếp cận với những công nghệ hiện đại. Công nghệ nung chuyển từ lò than sang nung bằng gas, vừa nhanh, vừa bảo vệ được môi trường và quan trọng hơn cả là các sản phẩm đều lửa, cho chất lượng tốt hơn.
Các cơ sở sản xuất gốm tại Mạo Khê đã tự biến vùng đất cha ông trở thành một điểm du lịch hấp dẫn. Trên trục đường 18, hầu như các đoàn xe chở khách mỗi lần ghé qua Mạo Khê đều chọn nơi đây là điểm dừng chân và các điểm sản xuất gốm sứ là nơi thu hút đông đảo du khách nhất. Có thể trong những đoàn khách, có những người không mua sản phẩm gốm do chưa có nhu cầu, nhưng khi trở về, chắc chắn một điều, họ sẽ nhớ đến vùng đất Mạo Khê có các cơ sở sản xuất gốm sứ với những sản phẩm có chất lượng. Và một ngày nào đó, họ sẽ quay trở lại vùng đất này. Đó là điều mà những doanh nghiệp ở đây mong muốn và họ cho rằng, sự bền vững phải bắt đầu từ sản phẩm.
Nguồn : Báo Văn Hóa
Top Google: Pottery & Ceramic

Thứ Tư, 8 tháng 5, 2013

Làm sạch đồ gốm sứ.

Đồ gốm sứ để trưng hoặc sử dụng lâu ngày thường bám các vết bẩn nhìn không đẹp. Dưới đây là một cách dễ dàng làm sạch lại đồ Pottery, sứ cũ.
Đối với các vết bẩn ở đồ sứ thông thường là do bị xước, lâu ngày bám bụi thành vết bẩn trông không đẹp.
do-gom-su1

Bạn lấy muối và giấm hòa theo tỉ lệ 1:1 rồi đem đun nóng cho tan hết muối. Dùng khăn ẩm phủ lên vết bẩn một lúc rồi lấy khăn hơi ráp thấm nước giấm chùi mạnh, vết bẩn sẽ hết.
do-gom-su2
Với đồ sứ nhám, bạn hòa xà bông với nước, thả đồ sứ vào và dùng bàn chải mềm để chà vết bẩn.
SSM

Làng gốm sứ Bát Tràng!


Bát Tràng là một làng cổ nằm bên sông Hồng, đến đầu làng ta đã bắt đầu thấy những bình hoa, chậu cảnh, tượng gốm bày la liệt, rải dài theo ngõ ngách khắp làng; cả hàng mộc, thô cho đến những thành phẩm trau chuốt, bóng bẩy, đa hình, đa sắc; cả đồ dân dụng cho đến hàng mỹ nghệ đắt tiền...



Xã Bát Tràng gồm hai thôn Bát Tràng và Giang Cao thuộc huyện Gia Lâm, Hà Nội. Tương truyền, gần 6 thế kỷ trước, có một nghệ nhân cao tuổi, râu tóc đã bạc trắng, từ làng Bồ Bát trong Thanh Hóa đến Bát Tràng hành nghề, dựng nghiệp, rồi truyền lại nghề gốm bàn xoay cho dân làng. (Gọi là gốm bàn xoay, bởi cách nặn, chuốt đồ gốm trên một cái mâm luôn luôn được đạp cho quay tròn). Câu chuyện về cụ nghệ nhân tóc bạc trắng chỉ là truyền khẩu. Còn theo những gì được ghi lại trong sử sách thì làng nghề Bát Tràng cũng đã có đến 500 năm tuổi. Một số thư tịch cổ có ghi việc thời Lê sơ, thế kỷ 15, các cống phẩm triều đình cống nạp cho nhà Minh bên Trung Quốc gồm các sản vật quý như gấm, vóc, lụa là, châu ngọc , và có cả đồ gốm Bát Tràng. Nhưng có thể nói, nghề gốm ở Bát Tràng cực thịnh là vào thế kỷ 16, thế kỷ 17. Nhiều đồ thờ quý giá ở những đình, đền, chùa, miếu còn đến nay, thấy có ghi tên tuổi những người cúng tiền và thời gian chế tác, thì biết những đồ gốm Bát Tràng cực kỳ đẹp cả cốt, dáng, nét và men đã ra đời vào thời Mạc Mậu Hợp và thời Lê trung hưng.


Từ xưa, dân Bát Tràng đã sống và phát triển bằng nghề gốm sứ. Đất sét để làm đồ gốm, người Bát Tràng phải mua từ làng Cổ Điển bên Vĩnh Phú, hoặc mua từ làng Dâu bên Bắc Ninh. Hàng gốm Bát Tràng thời kỳ đầu là đồ gốm trắng, mãi sau mới chuyển sang làm đồ đàn. Gốm đàn là loại gốm "xương" đỏ, miệng loe, mỏng và thấp. Nghĩa là người thợ làm "xương" gốm bằng đất đỏ, rồi mới lót một lượt đất trắng mỏng ra ngoài. Quy trình gia công này có công đoạn phải đàn cho "xương" và "da" gốm mỏng ra, do vậy mới gọi là đồ đàn. Đất đỏ làm đồ đàn phải mua từ Hồ Lao, Hồ Lễ bên Hải Dương hoặc mua của Thổ Hà bên Bắc Ninh. Lò đàn của Bát Tràng truyền thống làm theo cấu trúc dưới vuông trên cuốn. Khi đưa đồ vào nung phải xếp trong những bao thơi. Bao thơi là 4 viện gạch vuông cỡ lớn, rộng chừng 33cm, dày 8 đến 9cm, ghép lại thành hình hộp, trong lòng vừa đặt 4 cọc bát hoặc những đồ khác tương đương. Các bao thơi chứa đồ gốm bên trong được xếp vào lò, chồng lên nhau từ thấp lên cao. Mỗi mẻ lò nung được hàng trăm ngàn bát đĩa. Gạch làm bao thơi sau mỗi lần dùng, nếu không vỡ, sẽ được dùng tiếp cho lần sau. Bởi thế mà độ già, độ rắn chắc của gạch này rất cao, chất lượng tuyệt tốt, nên người tứ xứ ưa mua loại gạch này về để xây cất.

Từ các thế kỷ trước, gốm Bát Tràng chủ yếu là đồ thờ. Về sau gốm Bát Tràng đã có nhiều đồ gia dụng, phổ biến nhất là bát, đĩa, bình, lọ, ấm chén. Và ngày nay, gốm Bát Tràng đã có khá nhiều mặt hàng phong phú về chủng loại và kiểu dáng, bao gồm cả những mặt hàng mỹ nghệ như đĩa treo tường, lọ hoa, con giống, tượng phiên bản và phù điêu với kỹ thuật và công nghệ cao. Các bộ sưu tập gốm sứ Bát Tràng đã đạt tới đỉnh cao của nghệ thuật và kỹ thuật chế tạo đồ gốm sứ ở Việt Nam.

Pottery, gốm sứ

Đến thế kỷ XVIII, làng gốm Bát Tràng vẫn tiếp tục phát triển mạnh. Bến Bát Tràng bên sông Hồng trở thành nơi buôn bán sầm uất. Đến thế kỷ XIX, Bát Tràng vẫn là một trung tâm đồ gốm nổi tiếng của Thăng Long-Hà Nội nói riêng và cả nước nói chung. Đặc biệt, loại gạch vuông có chất lượng cao đã đi vào những câu ca dao quen thuộc, được lưu truyền trong nhân dân: “Ước gì anh lấy được nàng. Để anh mua gạch Bát Tràng về xây”.

Sau năm 1986 làng gốm Bát Tràng có sự chuyển biến lớn theo hướng kinh tế thị trường. Các hợp tác xã lần lượt giải thể hoặc chuyển thành công ty cổ phần, những công ty lớn được thành lập nhưng vẫn còn tồn tại nhiều tổ sản xuất và phổ biến là những đơn vị sản xuất nhỏ theo hộ gia đình. Từ thôn Bát Tràng, nghề gốm nhanh chóng lan sang thôn Giang Cao và đến nay, cả xã Bát Tràng (gồm hai thôn Bát Tràng, Giang Cao) trở thành một trung tâm gốm lớn.

Ngoài bát đĩa, ấm chén thông dụng, Bát Tràng còn làm nhiều hàng khác, như các đồ thờ tự và các đồ cho trang trí nội, ngoại thất : độc bình, lư, đỉnh, đèn thờ, các bộ tượng tam đa, tam thánh, chậu hoa, con giống, gạch trang trí cao cấp... Hàng Bát Tràng từ xa xưa đã nổi tiếng về chất men phủ, phổ biến là men màu búp dong, loại men này sắc độ trắng hơi ngả xanh hoặc xám, trong vào sâu. Đặc biệt là Bát Tràng đã có men lý, men nho, men này màu gần như màu ngọc thạch, nên được gọi là men ngọc. Tiếc thay, đến nay loại men quý này đã bị thất truyền. Câu nói truyền miệng của người Bát Tràng "nhất nho, nhì lý" không chỉ nhằm ca ngợi thứ đặc sản của quá khứ vinh quang, mà còn như một lời nhắc nhở các thế hệ hôm nay gắng sức tìm lại giá trị ông cha đã đạt được. Riêng hai loại men rạn, là rạn xương đất đen và rạn xương đất trắng rất có giá trị từ xưa, thì ngày nay các nghệ nhân chế tác rất thành công.

Sản phẩm gốm sứ Bát Tràng không những nổi tiếng trong cả nước mà còn được xuất khẩu sang nhiều nước trên thế giới từ năm 1990 như Nhật Bản, Hàn Quốc, Mỹ và các nước trong khối EU. Nhiều sản phẩm gốm cổ Bát Tràng đang được lưu trữ tại một số viện bảo tàng lớn trên thế giới như Viện bảo tàng Royaux-Bỉ, Viện bảo tàng Guimet-Pháp.

Từ năm 2002, các nghệ nhân Bát Tràng bắt đầu liên kết để sản xuất và tiêu thụ sản phẩm thông qua Hiệp hội gốm sứ Bát Tràng. Những thành viên của hiệp hội không chỉ là những gia đình sản xuất gốm mà còn có cả các công ty kinh doanh gốm sứ. Thông qua hiệp hội, người Bát Tràng có cơ hội tìm hiểu, nắm bắt thông tin về thị trường, các kiến thức mới trong công nghệ sản xuất gốm sứ, phương thức buôn bán thời thương mại điện tử và cách nâng cao năng lực cạnh tranh.

Hiện nay, sản phẩm gốm Bát Tràng càng ngày càng phong phú và đa dạng. Ngoài các mặt hàng truyền thống, các lò gốm Bát Tràng còn sản xuất nhiều sản phẩm mới đáp ứng yêu cầu tiêu dùng trong Việt Nam như các loại ấm chén, bát đĩa, lọ hoa... kiểu mới, các vật liệu xây dựng, các loại sứ cách điện... và các sản phẩm xuất khẩu theo đơn đặt hàng của nước ngoài. Sản phẩm Bát Tràng có mặt trên thị trường cả nước và được xuất khẩu sang nhiều nước châu Á, châu Âu. Bát Tràng cuốn hút nhiều nhân lực từ khắp nơi về sáng tác mẫu mã mới và cải tiến công nghệ sản xuất. Một số nghệ nhân đã bước đầu thành công trong việc khôi phục một số đồ gốm cổ truyền với những kiểu dáng và nước men đặc sắc thời Lý, Trần, Lê, Mạc...

Ngày nay, đến thăm làng gốm Bát Tràng, vào bất cứ thời điểm nào trong ngày cũng thấy làng quê này luôn luôn sôi động. Không khí lao động hối hả, tấp nập, xe ô tô chuyên chở vào làng và chở sản phẩm đi tiêu thụ.
Website: Pottery

Chọn mua và bảo quản hàng gốm sứ


Hiện nay, đồ dùng bằng gốm sứ rất đa dạng và phong phú. Tuy nhiên, bạn cần biết cách quan sát để tránh mua nhầm hàng kém chất lượng.
Các vật dụng bằng gốm, sứ đều được làm từ nguyên liệu chính là đất sét nung. Chất lượng gốm và sứ khác nhau do quá trình chọn nguyên liệu, phụ gia và quy trình sản xuất. Đồ gốm có chất lượng kém hơn đồ sứ, do chỉ được đun dưới nhiệt độ từ 800- 1.2000C. Trong khi đó, đồ sứ được đun đến 1.3000C.

Cách phân biệt đồ gốm - sứ

Dùng đũa gõ nhẹ vào thành miệng sản phẩm, sẽ nghe tiếng ngân kim khí kéo dài. Lật trôn sản phẩm lên xem, nếu thấy men tráng không kín thì đúng là đồ sứ.

Đồ gốm có cấu tạo nguyên liệu không tinh khiết bằng đồ sứ, độ xốp cao hơn, tính giữ nhiệt kém hơn nên tiếng ngân ngắn và phải tráng men kín toàn bộ.

Ngoài ra, bạn có thể phân biệt bằng cách quan sát lớp men: Đồ sứ có lớp men bóng láng, đều. Lớp men của đồ gốm thô hơn và dễ bị lỗi.

Nếu quan sát một mảnh sứ vỡ, bạn sẽ thấy phần xương của đồ sứ có màu trắng tinh, phần trong và ngoài đồng bộ, cùng một chất liệu. Ngược lại, màu lớp của men phủ và phần đất nung bên trong sản phẩm gốm rất khác nhau.
Đồ gốm dễ vỡ hơn đồ sứ, có độ xốp cao nên dễ thấm nước và mục.

Những lưu ý khi sử dụng đồ gốm, sứ

Khi mua đồ sứ, bạn nên quan tâm đến hình dáng và nước men.

Hình dáng cần cân đối, cả mặt trong lẫn mặt ngoài đều láng bóng, nước men không bị rạn nứt chân chim, ít chấm đen nhỏ, không nhăn nhúm. Nói chung, càng bóng láng càng tốt. Thông thường, nếu đồ sứ được nung chín đều sẽ có nước men trắng trong và bóng láng.

Để làm sạch đồ sứ, bạn dùng giẻ thấm xà phòng, tro mịn hoặc mùn cưa để cọ rửa. Tuyệt đối không chà rửa đồ sứ với cát, dụng cụ rửa chén bằng kim loại hoặc bằng nhựa cứng. Nếu không, nước men sẽ bị trầy xước, các đường vàng kim nhũ trên đồ sứ dễ bị bong, tróc.

Ngoài ra, bạn cũng không nên dùng chanh, giấm, khế hay các loại axit để chùi rửa đồ sứ, vì axit sẽ làm mờ màu sắc và các họa tiết trên lớp men.

Đồ gốm không đắt tiền như đồ sứ, dùng không bền. Do đó, cách chọn mua cũng đơn giản hơn, chủ yếu chọn theo thẩm mỹ và ý thích.

Để sử dụng đồ gốm lâu bền, khi vừa mua về, nên ngâm nước từ 4-8 giờ để đất nở ra, bịt kín các kẽ hở. Tốt nhất, nên dùng nước vo gạo để ngâm, vì cám gạo có chất dầu, dễ thấm dần và bịt kín các kẽ hở. Sau đó, lấy ra, ngâm sản phẩm ngập trong nước muối, đun sôi từ 5 – 10 phút để muối ngấm đều và tăng độ giãn nở của đất. Cách này giúp được đồ gốm bền, chắc hơn, tránh được hiện tượng chỗ hút nước nhiều, chỗ hút ít, dễ vỡ.
Sưu tầm.
Web: Pottery & Ceramic

Những đồ gốm đặc biệt ở Bát Tràng

Đây là chiếc đĩa lớn 1m2, trong thời điểm này đây là chiếc đĩa lớn nhất tại làng Bát Tràng. Do gia đình ông Phạm Xuân Hòa sản xuất.
Gốm sứ
Với những nét vẽ bay bướm, cảnh vật sơn thủy như hiện ra sống động trước mắt người xem. Để có làm ra được một chiếc đĩa như thế rất khó và rất ít người có thể làm được. Nếu bạn có dịp về Bát Tràng có thể hỏi thăm nhà ông Phạm Xuân Hòa xóm 3 Bát Tràng, để thăm quan.

Trên đây là hình ảnh ông Phạm Xuân Hòa, ngoài những chiếc đĩa vẽ sơn thủy. Gia đình ông còn sản xuất những chiếc đĩa đắp chữ nho, chữ nho sứ để đắp tại đền chùa.


Hy vọng bài viết giới thiệu cho bạn thêm một sản phẩm đẹp và đặc biệt của lànggốm Bát Tràng.

Tác giả: HoangOH
Tags: Pottery & Ceramic

Choáng với giá khủng của chiếc bát gốm 9,5 triệu USD


Một chiếc bát hoa sen màu đỏ hôm qua lập kỷ lục là chiếc bát Pottery Khang Hy Trung Hoa đắt nhất trên thế giới khi được mua với giá 9,5 triệu USD.

Một chiếc bát hoa sen màu đỏ hôm qua lập kỷ lục là chiếc bát gốm Khang Hy Trung Hoa đắt nhất trên thế giới khi được mua với giá 9,5 triệu USD.


Chiếc bát gốm Khang Hy hoa sen được bán với giá 9,5 triệu USD.

Chiếc bát hoa sen bằng gốm từ thời hoàng đế Khang Hy của Trung Quốc (1662-1722) được bán với giá 74 triệu đôla Hong Kong (9,5 triệu USD), vượt qua dự kiến trước buổi đấu giá khoảng 20 triệu HKD và gấp 140 lần giá bán của nó ba thập kỷ trước.

Chiếc bát được bán cho một nhà buôn đồ gốm sứ của Hong Kong William Chak, Arab News cho hay. Hơn 400 khách hàng đấu giá cho 57 mẫu vật bằng gốm trong phiên đấu giá buổi sáng, với dòng người dài xếp hàng bên ngoài phòng đấu giá chính và các đường dây điện thoại liên tục bận rộn.

"Tất nhiên, với thị trường hàng đầu này, có rất nhiều người tham gia đến từ khắp nơi. Tuy nhiên, nói về số lượng thì phần lớn các hạng mục được giao dịch hôm nay về các tác phẩm nghệ thuật của Trung Quốc đều hướng đến khách hàng đại lục", Nicolas Chow, người đại diện của nhà đấu giá Sotheby, nói.

Phiên đấu giá mùa xuân kéo dài năm ngày tại Hong Kong, dành cho những người đấu giá trên toàn cầu, gồm các mặt hàng trang sức, tác phẩm nghệ thuật, đồ gốm sứ, đồng hồ của châu Á và Trung Quốc. Cuộc đấu giá được theo dõi chặt chẽ khi nền kinh tế tăng trưởng chậm chạp vào năm 2012 và chiến dịch chống xa hoa lãng phí đang lên cao ở Trung Quốc.

Tags: Pottery & Ceramic

Gốm và sứ khác nhau thế nào

Gốm và sứ xét về mặt cấu tạo chỉ là một loại vật liệu là gốm có tên tiếng anh là ceramic. Đây là loại vật liệu được chế tạo từ các vật liệu vô cơ phi kim loại (là các loại oxid, carbide, nitride, silicate…), sản phẩm ceramic được tạo hình từ sự phối trộn các vật liệu trên rồi nung kết khối ở nhiệt độ cao.
Phân loại theo công dụng thì ta có gốm kỹ thuật và gốm dân dụng. Trong gốm dân dụng thì tùy theo chất lượng nguyên liệu (loại nguyên liệu, độ tinh khiết của nguyên liêu… chủ yếu là đất sét cao lanh) và chế độ điều chế (nhiệt độ…) mà ta có thể chia thành các sản phẩm sành, gốm (pottery) , sứ (porcelain, china). Trong gốm kỹ thuật thì ta có các loại vật liệu như : gốm xây dựng, vật liệu chịu lửa, vật liệu bền hóa học, đồ gốm tinh, gốm đặc biệt có những tính chất từ, điện, nhiệt đặc biêt.
Pottery
Ảnh minh họa: Pottery - Gốm và sứ
Gốm: Vấn đề tên gọi và sự phân loại (Tạp Chí Văn Hóa Dân Gian Số 1(97)/05)

Trong một tác phẩm xuất bản gần đây nhất, năm 2001, Trần Khánh Chương, hoạ sĩ, nhà nghiên cứu gốm, đã đặt tên cho cuốn sách của mình là Gốm Việt Nam, từ đất nung đến sứ (Trần Khánh Chương 2001). Như vậy, chỉ riêng cái tên của một cuốn sách đã bao quát cả một diễn trình, một dòng chảy từ quá khứ đến hiện tại của nghệ thuật gốm Việt Nam. Từ đất nung đến sứ là một chặng đường dài gần một vạn năm với những biến cố thăng trầm mà cho đến thời điểm hiện nay, ngay cả trong giới nghiên cứu, những khái niệm, những tiêu chí để phân loại gốm dường như vẫn chưa được thống nhất.

Việc chưa được thống nhất những thuật ngữ về gốm đã dẫn đến tình trạng rất khó xác định niên đại, hoặc nói cách khác là rất khó định vị thời điểm khai sinh ra một loại gốm. Ví dụ, nếu theo những tiêu chí A thì loại hình sứ – được coi là đỉnh cao của nghệ thuật gốm, ra đời từ thời Lý (thế kỉ X, XI); còn nếu theo tiêu chí B thì loại hình này mãi tới nửa sau thế kỉ XX mới xuất hiện ở Việt Nam (đánh dấu bằng sự ra đời của nhà máy sứ Hải Dương, năm 1960). Như vậy, xuất phát từ 2 quan điểm, 2 tiêu chí phân loại, các nhà nghiên cứu đã làm cho niên đại ra đời của sứ “vênh” nhau tới 10 thế kỉ. Người ta có thể đặt câu hỏi : Thế nào là sành, thế nào là đất nung, sứ có nằm trong “họ nhà gốm” không? Các loại sành trắng và sành xốp khác nhau ra sao? Ngoài ra trong sự phát triển đa dạng của nghệ thuật gốm hiện nay, những dòng gốm men ở các tỉnh Nam Bộ thì xếp vào nhánh nào? v.v… và v.v…

Trong lịch sử nghiên cứu nghệ thuật gốm Việt Nam, một trong những người có công lớn trong việc đặt nền móng cho sự nghiệp sáng tác và nghiên cứu là cố giáo sư, hoạ sĩ Nguyễn Văn Y. Trong một bài viết đăng trên tập san của Trường Mĩ thuật công nghiệp (số 2, 1975), ông viết: “Cho đến nay, việc định nghĩa từ “gốm” cũng chưa được thống nhất. Điều đó có phần trở ngại trong việc tìm hiểu, phân loại, giới thiệu các loại gốm”. (Nguyễn Văn Y, 1975). Tôi cho rằng, không phải cho tới thời điểm giáo sư, hoạ sĩ Nguyễn Văn Y viết bài này, năm 1975, mà cho tới thời điểm hiện nay, việc sử dụng các thuật ngữ xung quanh phạm vi loại hình nghệ thuật này vẫn còn nhiều bất cập.

Từ trước tới nay, thuật ngữ “đồ gốm” được đa số chúng ta hiểu một cách đơn giản nhất là “Tên gọi chung các sản phẩm được làm từ đất sét, sau được nung qua lửa” (Trương Thị Minh Hằng 1998, tr.125). Còn theo Từ điển tiếng Việt của Hoàng Phê: Gốm là “Tên gọi chung sản phẩm chế từ đất sét và hỗn hợp đất sét nung, như đồ đất nung, sành, sứ, v.v…” (Hoàng Phê 1988, tr.432). Như vậy, trong luận văn và cuốn từ điển nói trên, gốm là một khái niệm bao trùm từ đất nung đến sứ. Tuy nhiên, trong một số công trình nghiên cứu, do quan niệm, hoặc có thể do “ngữ cảnh” này khác, nhiều tác giả đã sử dụng thuật ngữ này như một loại hình riêng trong tương quan so sánh và khu biệt với sành và sứ. Ví dụ, trong một bài viết đăng trên tạp chí khảo cổ, gốm là thuật ngữ được dùng để chỉ tất cả những sản phẩm chưa đạt tiêu chuẩn của sành (ở đây chỉ loại đất nung). (Trần Anh Dũng, Đặng Kim Ngọc 1985, tr.77). Còn trong một vài trường hợp khác, gốm được dùng để phân biệt với sứ – tất cả những gì chưa đạt tiêu chuẩn của sứ thì được gọi chung là gốm (?) (Trần Đức Anh Sơn 2002); hoặc Mộ Thanh, “Lửa hoàn nguyên”, tr.224 – 234). Đôi khi, khái niệm này trở nên “trừu tượng” hơn khi người ta dùng để phân biệt nó với sành: “Tính bảo thủ của sành lâu hơn gốm” (Trịnh Cao Tưởng 2003, tr.102 – 110). Ngoài ra còn có thuật ngữ “gốm sứ” vừa được dùng để chỉ các sản phẩm của họ nhà gốm nói chung, vừa để chỉ riêng những sản phẩm chưa đạt, hoặc gần đạt tới tiêu chuẩn của đồ sứ (với nghĩa “demi” sứ); và cũng có khi “gốm sứ” được hiểu bao gồm sứ và những đồ gốm có men.

Trong thực tế lịch sử, khi nghệ thuật chế tác sứ đạt tới những tiêu chí cao nhất về độ lửa, độ trong, bóng, độ thấu quang v.v… và trở nên hoàn hảo thì người ta không muốn cho sứ vào họ nhà gốm để sứ dễ được đề cao trên thị trường. Đó là tâm lí chung của cả người tiêu dùng chứ không riêng giới thương mại gốm. Nguyễn Văn Y đã giải thích hiện tượng này và đưa ra lời tổng kết như sau: “Gốm là tiếng gọi chung nhất của mấy loại trên. Nhưng trên thị trường, người ta muốn tách sứ ra khỏi gốm, bởi cái dạng bóng bẩy của nó khác các loại trên không ít. Một phần còn do nguyên nhân lịch sử: sứ ra đời rất muộn so với họ nhà gốm ổn định từ lâu. Nếu ở Việt Nam thường gọi “Gốm và Sứ”, ở châu Âu thường gọi “Cẻramique et Pocelaine” là đều do thói quen hoặc có dụng ý, hoặc vô tình. Nhưng về mặt khoa học, sứ trước sau chỉ là một loại của gốm” (Nguyễn Văn Y 1976, tr.226).

Cách đây 5 năm, trong công trình Làng gốm Phù Lãng (Trương Thị Minh Hằng, 1998), dựa trên thành quả của những người đi trước, trong đó có tham khảo cuốn sách Nghệ thuật gốm Việt Nam của Trần Khánh Chương, chúng tôi đã phân chia toàn bộ đồ gốm Việt Nam thành 5 loại gốm như sau: 1. Đất nung, 2. Sành nâu, 3. Sành xốp, 4. Sành trắng, 5. Sứ.

Cách phân loại như trên có 2 điểm đáng lưu ý :

- Thứ nhất: lấy xương gốm làm tiêu chí phân loại.

- Thứ hai: lấy niên đại của các loại gốm làm thứ tự phân chia.

Nhìn vào thứ tự của các loại gốm, người ta có thể hiểu rằng loại nào ra đời sớm nhất, loại nào xuất hiện muộn hơn. Tác giả luận văn đã cho rằng, đây được coi là 5 loại hình gốm chính ra đời kế tiếp nhau và cùng tồn tại cho tới tận ngày nay (Trương Thị Minh Hằng 1998).

Cho đến thời điểm hiện nay, việc phân loại và sắp xếp toàn bộ lịch trình phát triển của nghệ thuật gốm Việt Nam theo 5 loại hình gốm như trên về cơ bản không sai, nhưng chưa thật gọn. Nhìn vào “bảng” phân loại, người ta có thể hỏi, tại sao lại không xếp 3 loại sành (sành nâu, sành xốp, sành trắng) thành một “cột” riêng trong khi thứ tự niên đại của các loại gốm không bị xáo trộn. Để có được một cái nhìn tổng quát về sự phát triển phong phú, đa dạng về loại hình của gốm Việt Nam, có thể tham khảo thêm cách phân loại của một số nước khác. Ví dụ ở Nhật Bản, theo Noritake Tsuda, trong cuốn Sổ tay nghệ thuật Nhật Bản (Noritake Tsuda 1990, tr.220), gốm Nhật được phân làm 4 loại: 1. doki (thổ khí): đất nung; 2. toki (đào khí): đất nung có men; 3. sekki (thạch khí): sành và 4. jiki (từ khí): sứ. GS. Kiều Thu Hoạch cho rằng gốm cổ Trung Hoa cũng được phân thành 4 loại như trên. Cách phân loại như vậy được một số nhà khoa học Việt Nam cho là hợp lí, nhưng theo tôi, cách đó vẫn còn bất cập. Bởi lẽ trên thực tế, gốm đất nung có hai loại, có men và không men (xin nhấn mạnh, phần lớn là không men), trong khi sành cũng có 2 loại, sành có men và sành không men (cụ thể hơn, trong các loại sành, chỉ có sành nâu phần lớn thường không có men, còn sành xốp và sành trắng hầu hết có men). Vậy nếu đã tách đất nung thành 2 loại (thổ khí và đào khí) thì sao không tách sành thành 2 loại cho rạch ròi (còn đối với sứ tất nhiên được hiểu là bao giờ cũng có men). Cách phân loại trên chỉ chuẩn xác trong truờng hợp đồ sành được hiểu là (hoặc hiển nhiên là) loại gốm không men. Có thể tham khảo thêm cách phân loại gốm ở Thái Lan – một trong những quốc gia ở Đông Nam á có truyền thống sản xuất gốm từ rất sớm. Trong cuốn Ceramic Art in Thailand (Pariwat Thammapreechakorn & Kritsada Pinsri 1996, tr.171), gốm Thái được chia làm 4 loại. Tiêu chí để phân loại cũng dựa trên xương gốm và nhiệt độ trong lò nung: 1. Terra cotta (at less than 850oC), 2. Earthenware (between 880 – 1.150), 3. Stonware (1.150 -1.300), 4. Porcelain (1.300 – 1.450).

Cách đây ít năm, trong một buổi sinh hoạt khoa học chuyên đề về gốm Việt Nam tại Viện Nghiên cứu Văn hoá dân gian, người được mời thuyết trình là tiến sĩ Nguyễn Đình Chiến, ông đã chia đồ gốm thành 4 loại : 1. Đất nung, 2. Sành, 3. Sứ, 4. Gốm men. Mặc dù, cách chia này dường như đã bao quát được toàn bộ “phả hệ” gốm Việt Nam; nhưng theo cách trên, nếu xếp tất cả các loại sành có men và đất nung có men vào một “cột” (gốm men) tôi thấy có gì đó không “ổn”. Bản thân thuật ngữ gốm men không tải chứa được cốt lõi bên trong (tức là xương) của gốm. Thực tế, trong khi phân loại, các nhà nghiên cứu và giới sưu tầm cổ vật thường có xu hướng tách loại sành trắng (có men) ra khỏi “cột” gốm men để xếp nó vào “hệ” gốm sứ (một thuật ngữ có nội hàm khá mơ hồ như trên đã nói) và “cột” sành trong “bảng phân loại” trên được hiểu là chỉ những loại sành không men, tức loại sành nâu (là chủ yếu) và một số dạng sành có xương đất phức tạp khác (còn sành trắng và sành xốp phần lớn đều có men). Có thể lấy thêm ví dụ về cách gọi và phân biệt đồ gốm của một số học giả khác như sau: “Sản phẩm của lò gốm Đương xá bao gồm đồ sành và đồ gốm men” (Bùi Minh Trí, Trịnh Hoành Hiệp 2002, tr.567). Như vậy ở đây phải hiểu là đồ sành = đồ không men. Hoặc cụ thể hơn: “Khu Vạn Yên là một di chỉ sản xuất gốm không men (đồ sành) với hàng trăm lò hoạt động sầm uất vào thế kỉ 13-14” (Tăng Bá Hoàng, Nguyễn Duy Cương 2002, tr.563). Khái niệm đồ sành (đồ gốm không men) trong các công trình trên chủ yếu là dùng để chỉ loại sành nâu.

Tóm lại, mặc dù gốm men là một khái niệm mang tính phổ quát và được sử dụng rất rộng rãi trong giới nghiên cứu, nhưng theo tôi, khi phân loại gốm cần xác định rõ, trong hai thành phần của đồ gốm là xương và men, lấy thành phần nào làm tiêu chí.
Theo khaocoviet.forum-viet.net

Top Google: Pottery & Ceramic

Bộ ấm chén chất liệu gốm sứ , xuất xứ Việt Nam


Thưởng thức tách trà đậm đà hương vị với bộ ấm chén chất liệu pottery, xuất xứ Việt Nam với ưu đãi hấp dẫn trên Cucre.vn giá chỉ còn 89.000đ- giảm giá 44% - giá thị trường 160.000đ

- Bộ ấm chén trà gồm 06 chén + 01 ấm + 1 lọc trà

- Xuất xứ: Việt Nam

- Chất liệu: Gốm sứ

- Màu sắc: Trắng hoa văn xanh

- Kích thước hộp: 24x18x6cm 

- Bộ ấm chén chất liệu gốm sứ với hoa văn sắc xanh rất đẹp và tinh tế . Chất liệu sứ giúp giữ nhiệt tốt hơn để có những tách trà thơm ngon cho người Việt.

- Bạn có thể sử dụng để pha trà hằng ngày hoặc thưởng thức nghệ thuật trà đạo với bộ ấm chén chất liệu gốm sứ

THÔNG TIN CHI TIẾT

Nếu như văn hóa ăn được gọi là ẩm thực thì uống trà được coi là một cái “ Đạo”. “Văn hóa chè của người Việt Nam ta cũng vậy. Dù chưa có những công trình nghiên cứu tổng hợp, nhưng Trà đạo Việt Nam vẫn lộ ra chỗ này chỗ khác trong văn thơ, đàn nhạc, ca dao, vè ví của nhân dân ta từ cổ đến kim”. Uống trà đã trở thành thói quen hằng ngày và Trà đạo là một nét văn hóa của người Việt Nam. Bộ ấm chén chất liệu gốm sứ sẽ giữ hương vị thơm và đậm đà cho các loại trà ngon để thỏa mãn thói quen uống trà và nghệ thuật trà đạo của người Việt.


- Bộ ấm chén chất liệu gốm sứ, xuất xứ Việt Nam -


- Bộ ấm chén trà gồm 06 chén + 01 ấm + 1 lọc trà -

Để có ấm trà thơm ngon như ý đòi hỏi người pha trà có những kỹ thuật cũng như những hiểu biết nhất định. Hơn hết, bộ bình dùng để pha trà cũng góp một phần không nhỏ trong việc quyết định mùi hương, vị ngọt của trà. Bộ ấm chén trà được làm từ chất liệu ceramic có xuất xứ Việt Nam giúp bạn và người thân cảm nhận hương vị đậm đà thơm ngon của từng ngụm trà


- Thiết kế nhỏ gọn, xinh xắn -

Thiết kế nhỏ gọn, xinh xắn, bộ ấm chén trà sẽ cùng gia đình bạn gắn kết yêu thương, cùng chia sẻ hương vị. Đây cũng là cũng là món quà thể hiện sự tinh tế và tình cảm của người tặng sản phẩm được nhiều khách hàng ưa thích. Trong những dịp đặc biệt, bộ ấm chén trà sẽ là món quà ý nghĩa mà ai cũng mong được nhận. 


- Màu sắc bộ ấm trang nhã với hoa văn xanh, tinh tế -

Màu sắc bộ ấm trang nhã với hoa văn xanh, tinh tế hơn khi bên ngoài được phủ lớp men bóng loáng, không phai màu theo thời gian sử dụng. Còn gì thích hơn khi được cùng quây quần bên gia đình hay những người thân yêu và cảm nhận hương vị của tình yêu thương với ấm trà nóng thơm ngon.


- Tách trà tròn không quai đơn giản đẹp và nhã nhặn -


- Lưới lọc trà tiện dụng -


Còn gì thích hơn khi được cùng quây quần bên gia đình hay những người thân yêu và cảm nhận hương vị của tình yêu thương với ấm trà nóng thơm ngon !
Liên kết: Bảng giá Seo - Du hoc Nhat Ban - Pottery - Giay nam - Giay nu - Đào tạo seo - học tiếng Anh